CÁI VÀ CÁCH
Đọc “Cái và Cách” của TS. Hồ Ngọc Đại
I. Khái niệm CÁI và CÁCH
1. Mỗi CÁI quy
định CÁCH dùng đúng NGHĨA của nó (còn gọi là theo đúng KHÁI NIỆM của nó).
Trong thực tế
một CÁI được dùng với nhiều cách khác nhau; với mỗi Cách dùng khác nhau thì nó
là những cái khác nhau. Nên sự tồn tại của cái chưa nói lên điều gì về bản thân
nó - CÁI ở dạng trừu tượng.
CÁI được xác định bằng NGHĨA (KHÁI NIỆM) của
nó.
2. CÁCH có 2
nghĩa:
- CÁCH dùng CÁI
(CÁCH dùng của CÁI)
- CÁCH làm ra
CÁI
“Các thời đại
kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra CÁI gì, mà ở chỗ chúng sản
xuất bằng CÁCH nào, với những tư liệu lao động nào”
CÁCH đặc trưng nhất của người: CÁCH TƯ DUY.
3. TƯ DUY: Mỗi
môt hoàn cảnh bắt buộc con người phải tìm cách xử lý. Quá trình tìm cách xử lý
còn gọi là TƯ DUY.
CÁCH tư duy
còn gọi là PHƯƠNG PHÁP tư duy.
- Phương
pháp kinh nghiệm chủ nghĩa chỉ đủ sức hoàn thiện CÁI đã có, đưa nó
đến tận giới hạn nguyên lý của nó…
- Phương
pháp khoa học mới tạo ra CÁI MỚI theo nguyên lý mới
* Công cụ là hình thái của phương pháp
thuần khiết (quy định CÁCH dùng)
- Kế thừa:
+ Kế thừa bằng
kinh nghiệm: Trí tuệ trung bình chỉ biết dựa vào lẻ phải thông thường, suy xét
trực quan, trực tiếp, bằng kinh nghiệm.
+ Kế thừa bằng
phủ định: vượt ta khỏi những lẻ phải thông thường của số đông, bằng phủ định
cái cũ, sáng tạo ra cái mới. Cái mới là một hình thức của kế thừa - kế thừa
bằng phủ định.
* Tư duy khoa học cũng có lịch sử lâu đời dưới hình thức triết học, nhưng phải đến thời kỳ đại
công nghiệp thì khoa học mới chuyển thành công
nghệ, tìm cách xử lý bằng công nghệ cao, những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
II. CÁI VÀ CÁCH TRONG GIÁO DỤC
1. CÁI trong giáo dục
Bước phát triển đích thực là khi cung
cách làm ăn chuyển từ nguyên lý cũ sang
nguyên lý mới, chừa hề có.
Bản chất của
CÁI là CHẤT LIỆU của nó còn VẬT LIỆU tạo ra sự tồn tại thực của CÁI (CHẤT LIỆU
là nội dung, VẬT LIỆU là hình thức tồn tại). Do vậy, phải xem xét VẤN ĐỀ GIÁO
DỤC (cái) theo CHẤT LIỆU và VẬT LIỆU.
1.1 CÁI, nếu hiểu là đối tượng cần chiếm lĩnh,
thì CHẤT LIỆU mới là điều đáng quan tâm hơn cả. Muốn tinh chế CHẤT LIỆU của CÁI
(đối tượng cần chiếm lĩnh) cho thuần khiết phải nhờ VẬT LIỆU: thay vật liệu này
bằng vật liệu khác thật đơn giản, rõ ràng, thuần khiết, không chứa mảy may cơ
hội hiểu lầm.
“Không
biết lúc này đang cần CÁI gì, đó là chuyện phổ biến trong giáo dục do
vậy không biết lựa chọn VẬT LIỆU phù hợp để cô lập CHẤT LIỆU cần chiếm lĩnh của
CÁI”.
CÁI MỚI và CÁI TƯƠI MỚI: CÁI MỚI được hiểu là
MỚI về CHẤT LIỆU và CÁI TƯƠI MỚI là MỚI về VẬT LIỆU.
CÁI trong giáo
dục đều có sẵn, vậy CÁI MỚI ở đây có nghĩa là gì? CÁI MỚI, là CÁI lần đầu tiên
giáo dục nhà trường đưa đến cho học sinh với CHẤT LIỆU mới, chưa hề có. CÁI MỚI
được hình thành (trong quá trình giáo dục) như một MẪU.
Thực ra, trong
giáo dục CÁI MỚI hay TƯƠI MỚI chỉ là tương đối, tùy theo theo vị trí và chức
năng của chúng trong quá trình giáo dục.
Yêu cầu trong giáo dục:
- Dùng một VẬT
LIỆU tối thiểu, quen thuộc nhưng đủ thể hiện CHẤT LIỆU cần lĩnh hội.
- Hình thành
CHẤT LIỆU (CÁI MỚI) phải dùng VẬT LIỆU quen thuộc để không lướng vướng vì VẬT
LIỆU.
- Khi củng cố
và tinh chế CHẤT LIỆU thì lại dùng nhiều VẬT LIỆU khác nhau làm TƯƠI MỚI để tạo
ra sự hấp dẫn trực tiếp.
1. 2. CÁI là sản phẩm giáo dục
Tất cả những
CÁI có sẳn như đồ dùng sinh hoạt, công cụ lao động, ngôn ngữ là cơ sở vật chất, là nguồn gốc và nguyên nhân
của sự hình thành và phát triển cá nhân.
CÁI có trong
mỗi cá nhân với tư cách sản phẩm giáo
dục (tự phát hay tự giác) mới tạo ra
sự hình thành và phát triển cá nhân.
CÁI - sản phẩm giáo dục là một giá trị. CÁI - sản phẩm giáo dục là một giá trị do sức lao động tạo ra. Giá trị của sản
phẩm giáo dục làm nên giá trị cá nhân. Sự phong phú về sản phẩm giáo dục tao ra
sự phong phú nhân cách hưởng giáo dục.
CÁI - sản phẩm giáo dục là một giá trị sử dụng.
Sản phẩm giáo dục được làm ra cho chính mình
- Sản phẩm giáo dục không phải là hàng hóa.
CÁI - sản phẩm
giáo dục ở cuối quá trình làm ra được coi như MỤC ĐÍCH (cho mình). Sản phẩm
giáo dục đã được làm ra tức là đã đạt được mục đích thì sẽ được dùng như một
PHƯƠNG TIỆN phục vụ cho mục đích mới, cho kẻ khác.
CÁI có sẵn
trong đời và còn ở ngoài quá trính giáo dục đều có tính ĐỒNG LOẠT đối với mọi
cá nhân. CÁI có ở cá nhân vào cuối một quá trình giáo dục (đã là sản phẩm giáo dục) thì nó là CÁ THỂ,
với trình độ cụ thể xác định lúc ấy,
ở cá nhân ấy.
“CÁI có sẵn cho mọi người là CÁI trừu tượng,
có tính đồng loạt. CÁI - sản phẩm giáo dục là CÁI cụ thể, có tính cá thể, - là của tôi”
1.3. Chất lượng giáo dục
Chất lượng
giáo dục được tạo ra từ giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm giáo dục.
Lấy giá trị và
giá trị sử dụng của sản phẩm giáo dục để xác định CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC là nguyên
tắc cơ bản nhất để đánh giá một nền giáo
dục hay một quá trình giáo dục
cụ thể tại một thời điểm xác định. Đó
cũng là nguyên tắc cơ bản để đánh giá một cá
nhân hưởng giáo dục.
1.4. Mối
liện hệ biện chứng mục đích - phương tiện, đồng
loạt - cá thể
Giáo dục hiện
đại cần xử lý hai mối liên hệ chủ chốt:
+ Mối liện hệ
biện chứng mục đích - phương tiện
+ Mối liện hệ biện chứng đồng loạt - cá thể
Cả hai mối
liên hệ này đều xuay quanh CÁI:
CÁI - đối tượng lĩnh hội (đồng loạt) biến thành sản phẩm giáo dục (cá thể), do đó CÁI là mục đích lần đầu đạt được, tức cũng là CÁI MỚI, với CHẤT LIỆU MỚI.
CÁI MỚI (CHẤT
LIỆU) chỉ có giá trị tương đối về thời
gian, tức là lúc đang hình thành
với tư cách là mục đích. Sau đó nó
trở thành phương tiện, như một VẬT
LIỆU
1.5 Sản phẩm đặc trưng của giáo dục nhà
trường hiện đại.
Giáo dục nhà
trường có 3 lĩnh vực:
- Khoa học
- Nghệ thuật
- Lối sống
Mỗi lĩnh vực
có sản phẩm giáo dục đặc trưng riêng cho mình, nhưng có sản phẩm chính thức, chính cống, dứt khoát đặc
trưng cho giáo dục nhà trường hiện đại là KHÁI NIỆM KHOA HỌC HIỆN ĐẠI.
“Khái niệm khoa học (CÁI) là cốt lõi vật
chất của giáo dục nhà trương hiện đại”
KHÁI NIỆM KHOA
HỌC có giá trị khác nhau trong sản phẩm giáo dục thuộc các lĩnh vực khác nhau:
- Trong khoa
học: KHÁI NIỆM là đối tượng thuần khiết
cần được chiếm lĩnh triệt để, dứt khoát. Nó là sản phẩm chính thức chính cống,
dứt khoát.
- Trong nghệ
thuật: KHÁI NIỆM chỉ là cốt lõi vật chất
của sản phẩm giáo dục có thể có.
- Trong lối
sống: KHÁI NIỆM may ra là chỗ bấu víu
vật chất của sản phẩm giáo dục có thể có, mà neus có thì không chắc là tích
cực hay tiêu cực.
Yêu
cầu trong giáo dục:
Trong giáo dục
nhà trường, hệ thống CÁI (thực ra là CÁI MỚI) dưới hình thức KHÁI NIỆM KHOA HỌC
được chọn lựa thiết kế theo 3 nguyên tắc:
- Một hệ thống
phát triển
- Theo một
dòng lý thuyết được coi là chuẩn mực
- Chỉ cần một
lượng tối thiểu các khái niệm đủ để
đảm bảo sự vững chắc của hệ thống.
1.6 Kết luận: Chương trình môn học
CÁI có thể
hoàn toàn biến thành sản phẩm giáo dục như mong muốn (với những yêu cầu đã định
trước, khi quá trình thực tiễn còn chưa bắt đầu), đó là KHÁI NIỆM KHOA HỌC.
Trong 3 lĩnh
vực giáo dục, cái gọi là chương trình
môn học phải bao gồm một lượng tối
thiểu các khái niệm khoa học, được lựa chọn theo một dòng lý thuyết lấy làm
chuẩn mực và được xắp xếp theo tiến
trình phát triển tự nhiên của chúng.
Một
hệ thống khái niệm như vậy sẽ tạo ra một chương trình tối ưu.
2. CÁCH trong GIÁO DỤC
2.1 Cơ sở lý luận đổi mới nền giáo dục.
Nhân tố quyết
định và đặc trưng cho một giải pháp giáo dục là CÁCH biến CÁI - đối tượng lĩnh hội thành sản phẩm giáo dục.
A → a
A : đối tượng lĩnh hội
→ CÁCH biến đổi A thành a
a: sản phẩm giáo dục
Cốt
lõi của nền giáo dục là:
- CÁI cần đưa
đến cho học sinh
- CÁCH học
sinh có được CÁI, tức biến CÁI thành sản
phẩm giáo dục.
“Dựa vào khoa học là có một cách nhìn lý thuyết đối với các vấn đề thực tiễn
và xử lý các vấn đề thực tiễn trên cơ sở
lý thuyết”
“Nguyên lý của
đại công nghiệp là phân giải quá trình sản xuất, xét ngay trong bản thân nó và
không liên quan gì đến bàn tay con người, thành những yếu tố cấu thành nó,
nguyên tố đó đã tạo thành một khoa học hoàn toàn hiện đại là CÔNG NGHỆ HỌC”
“Nền sản xuất
đại công nghiệp đòi hỏi phải tổ chức
và kiểm soát được quá trình sản
xuất, sao cho sản phẩm là tất yếu”
“GIẢI PHÁP MỚI
thực hiện từng bước triển khai nguyên lý
mới về CÁCH, rồi từ đó chọn lựa và tổ chức hệ thống CÁI thích hợp với CÁCH
ấy”
“Một GIẢI PHÁP
ĐỔI MỚI phải có lý thuyết định hướng
cho việc tổ chức và triển khai quá trình thực
thi”
2.2 Cơ sơ lý luận GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI giáo
dục
- Cơ sở triết học: “ý niệm chẳng qua
là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi
trong đó”
- Cơ
sở tâm lý học:
+ J. Piaget:
Có một quá trình chuyển vào trong tự phát.
+ Tâm lý học
Liên Xô: Hoạt động bên ngoài và hoạt động bên trong có cùng một cấu trúc.
+ P. Galperin:
Có thể tổ chức được tuần tự các bước của quá trình chuyển vào trong.
- Cơ sở khoa học của bộ môn: Mỗi bộ môn
là một đối tượng (CÁI) cần chiếm lĩnh. Môi đối tượng có lý thuyết riêng của
mình. Có thể có nhiều dòng lý thuyết cho
một đối tượng, hãy chọn lấy một dòng
trong số đó làm chuẩn. Lý thuyết giúp
ta hình dung ra tất cả các khả năng,
tức tất cả những gì có thể có, mà thực
tiễn chỉ có một trong số đó.
Kết
luận: Giải pháp giáo dục, rút
cục, phải tạo ra một thực tiễn có
thật theo định hướng lý thuyết.
III. XÂY DỰNG GIẢI PHÁP GIÁO DỤC
Một GIẢI PHÁP là một LỐI RA. LỐI RA
không phải chổ SÁNG cửa sổ mà ở chỗ TÔI TỐI của cửa ra vào đang khép. Tình huống khẩn cấp, CÁCH ra khỏi
phòng nhanh nhất và an toàn nhất là nên theo hướng LỐI RA mà đi, đi có trật tự,
người này nối tiếp người kia, không chen lấn nhau.
1. Về mặt kỹ thuật, có 3 nhân tố làm nên thực
tiễn giáo dục:
- Đối tượng lĩnh hội, tức là CÁI cần đưa
đến cho học sinh.
- Sản phẩm giáo dục được hình thành ở
mỗi cá nhân người học.
- Quá trình chuyển vào trong, tức là
CÁCH biến CÁI (có sẵn chung cho mọi người) thành sản phẩm giáo dục ở mỗi cá
nhân.
Công thức để
định hướng lý thuyết và tìm cách thực thi quá trình giáo dục
A → a
A : đối tượng lĩnh hội
→ CÁCH biến đổi A thành a
a: sản phẩm giáo dục
2. Công nghệ giáo dục
2.1 Thiết kế giải pháp giáo dục
Người thiết kế giải pháp giáo dục
đóng vai trò quyết định trong xây dựng giải pháp giáo dục.
Người thiết kế phải có tư duy thời gian
- Thời gian là tuyến tính một
chiều.
- Trên đường thẳng thời gian, mỗi
đoạn là duy nhất, mất đoạn nào là mất tuyệt đối.
Các bước đi thực tiễn kế tiếp nhau
tuyến tính và mỗi bước đi ấy là duy nhất. Mỗi bước đi thực tiễn là một trình độ
hiện thân của lý thuyết.
Cần phải xử lý mối liên hệ biện
chứng giữa lý thuyết và thực tiễn: Lý thuyết đưa ra mọi khả năng có thể; thực
tiễn đòi hỏi xác lập một hiện thực duy nhất, có một không hai, ở thời điểm ấy
của một đời người.
Mục tiêu thiết kế
Mục tiêu đặc
thù của giáo dục nhà trường là cùng với
đời sống thực hàng ngày tạo ra sự phát triển cá nhân người học. Sự phát
triển cá nhân của người hưởng giáo dục là sự
phát triển tinh thần.
Phân biệt hai
khái niệm “trưởng thành” và “phát triển”:
- Trưởng thành
về thể chất là kết quả của sự hiện thực hóa (thời sự hóa) mã di truyền tư trong
bụng mẹ.
- Phát triển
về tinh thần là kết quả của sự hình thành CÁI MỚI ở ngoài đời, trong một hoàn
cảnh xã hội cụ thể.
Cơ sở thiết kế (giả thiết thiết kế)
- Mọi trẻ em
hiện đại trên trái đất này đều có thể tiếp nhận giáo dục như nhau.
- Có thể dạy
bất cứ khái niệm nào cho trẻ em bất cứ lứa tuổi nào, miễn là biết cách dạy.
Yêu cầu thiết kế
Giải pháp giáo
dục là một giả pháp thực tiễn hay còn gọi là chương trình hành động
Chương trình hành động phải diễn ra
trong thời gian va phải lấy sự phát
triển tự nhiên của học sinh làm cốt
lõi, làm lẻ sống, làm mục tiêu.
Phạm vi thiết kế
Sự phát triển
tự nhiên của học sinh trong giáo dục nhà trường phải dựa vào chương trình các môn học.
Trong các
chương trình môn học, chỉ có chương trình các môn khoa học (tự nhiên và xã hội)
là có thể tổ chức và kiểm soát được quá trình thực thi, sao cho sản phẩm giáo dục là tin cậy được.
Sản phẩm giáo
dục đáng tin cậy nhất là các KHÁI NIỆM KHOA HỌC, vì nó là đặc trưng của giáo
dục nhà trường hiện đại.
Như vậy, mấu
chốt của một giải pháp giáo dục hiện đại nằm ở:
- CÁI - khái
niệm khoa học hiện đại
- CÁCH - hình
thành khái niệm khoa học hiện đại ở mỗi cá nhân học sinh.
2.2 Quy trình Công nghệ giáo dục
a. Nguyên lý:
Thầy thiết kế
- Trò thi công.
- Thầy thiết
kế hệ thống việc làm
- Trò tự mình
làm từng việc một, việc này kế tiếp việc kia để tạo ra cho mình sản phẩm giáo
dục.
- Việc làm
triển khai trên VẬT LIỆU vật chất (hoặc vật chất hóa).
- Từ VẬT LIỆU ấy tạo ra sản phẩm. Sản phẩm chứa
CHẤT LIỆU
BS Hồ Hải
Vấn
đề đặt ra cho giáo dục phổ thông Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua không phải là
những con số muốn đạt được mà là tư duy giáo dục phổ thông như thế nào và tư
duy ấy sẽ đưa các thế hệ đi về đâu? Hệ quả của tư duy giáo dục sẽ có tác động
gì đến đất nước và con người Việt Nam trong tương lai? Đó là tất cả
những vấn đề lớn mà bất kỳ ai cũng trăn trở. Tôi thử nhìn xuyên suốt 3 vấn đề
lớn này xem sao?
Tư duy giáo dục
phổ thông hiện đại là tư duy giáo dục phi chính trị. Giáo dục phổ thông là nơi
cung cấp cho thế hệ trẻ một kiến thức tổng quát, một tư duy độc lập và những kỹ
năng sống phù hợp với thời đại. Tư duy giáo dục phổ thông không cần phải nhồi
nhét một cách quá nhiều, quá nặng về kiến thức, trong khi kiến thức ấy không
làm trẻ tự tư duy sáng tạo, mà chỉ là những vật thể sống chỉ biết sao chép.
Tại sao tư
duy giáo dục phổ thông phải là phi chính trị?
Bất kỳ một công
dân của một đất nước nào trên thế giới, đều được sinh ra và lớn lên
trong một nền văn hóa đặc thù, thông qua lịch sử hình thành và phát triển
của dân tộc ấy. Sự thấm đẫm tình yêu quê hương, dân tộc lớn dần theo
năm tháng một cách tự nhiên, mà không cần bất cứ giáo điều
nào áp đặt. Mọi sự áp đặt đều đưa đến những
thế hệ không sáng tạo vì mất tư duy độc lập. Giáo dục phổ thông luôn là
giáo dục làm nhiệm vụ cung cấp cho thế hệ trẻ một kiến thức tổng quát về khoa
học tự nhiên và xã hội, tự nó sẽ cho trẻ một tầm nhìn, một nhân sinh quan và
thế giới quan về đất nước và dân tộc một cách tự nhiên, nhưng
thấm đẫm tình yêu tổ quốc và dân tộc. Từ kiến thức tổng quát, nhân sinh
quan và thế giới quan ấy, mỗi cá nhân sẽ tự quyết định
con đường đi có tính sáng tạo và tự nhiên cho mình trên mọi lĩnh vực.
Tư duy độc
lập:
Phát minh và sáng tạo phục vụ nhu cầu bản năng
là thuộc tính của loài người. Lịch sử loài người đã chứng minh điều này, khi
con người thượng cổ với săn bắt, ăn lông ở lỗ cho đến hôm nay có thể bay trên
bầu trời như chim, hay lặn xuống biển sâu như cá và bao nhiêu điều đáng ngạc
nhiên khác qua thế giới phẳng toàn cầu hóa. Để phát triển tính sáng tạo và hiệu
quả của sự sáng tạo không gì khác hơn phải đặt mục tiêu giáo dục phổ thông phải
tạo được những thế hệ trẻ mang trong trí tuệ một tư duy độc lập.
Mỗi thời đại cần
một thế hệ có kiến thức và bản lĩnh khác nhau. Thời đại mà ông cha ta vì cuộc
thống nhất đất nước, các thế hệ trẻ cần một tư duy thâu tóm về một mối dành cho
công cuộc thống nhất đất nước. Thời đại đất nước hòa bình thì khác, sáng tạo để
đi lên chiếm lĩnh vị trí đầu hay dẫm chân tại chỗ, thậm chí thụt lùi và làm kẻ
về sau. Đó là vấn đề lớn mà các nước tiên tiến luôn đặt ra cho giáo dục của họ.
Chỉ có tư duy độc lập mới có ý kiến khác biệt và mới lạ,
từ đó đưa ra những ý tưởng phản biện và thúc đẩy qui luật
mâu thuẫn và thống nhất các mặt đối lập để thúc đẩy xã hội tiến
lên.
Mỗi cấp lớp trẻ có một nấc tư
duy khác nhau, trẻ tiểu học có tư duy chân thật, một bước, chỉ biết
ghi nhận. Trẻ trung học đệ nhất cấp (cấp 2) có tư duy hai bước, hay còn gọi là
tư duy suy diễn. Sau khi ghi nhận trẻ bắt đầu suy luận đúng sai. Trẻ bắt đầu
nhận biết đúng sai. Lên đến trung học đệ nhị cấp (cấp 3) trẻ sau khi suy luận
đúng sai một sự vật hiện tượng, trẻ chuyển sang tư duy tới hạn, hay còn gọi là
tư duy phản biện. Lúc đó trẻ bắt đầu đưa ra chính kiến để phản biện và hướng
giải quyết một vấn đề. Nếu giáo
dục phổ thông không trao cho trẻ một tư duy độc lập mà là áp đặt
theo ý chí của người lớn, chúng ta sẽ tạo ra những thế hệ thui chột tư duy
suy luận và tư duy phản biện để làm nên sáng tạo. Lúc đó, khủng hoảng về
con người, không chỉ khủng hoảng về xã hội không có những công dân ưu tú
mà còn thiếu văn những lãnh đạo cho dân tộc.
Giáo dục phổ
thông cần cung cấp những kỹ năng sống:
Trẻ ra đời chưa tiếp cận cuộc sống sinh động
thông qua thiên nhiên và cuộc sống. Chúng cần giáo dục đầu đời thông qua các
bậc học phổ thông cung cấp cho chúng các kỹ năng sống để sau này chúng có khả
năng hội nhập vào đời. Muốn thế chương trình giáo dục phổ thông là chương trình
cung cấp cho trẻ một kiến thức tổng quát, toàn diện, nhẹ nhàng theo từng lứa
tuổi, để trẻ vừa học, vừa chơi và phát triển các bước tư duy độc lập như đã nói
ở 2 phần trên. Giáo dục phổ thông là cung cấp kiến thức vào đời. Là làm sao cho
thế hệ trẻ biết làm việc tập thể, biết đồng thuận và biết nhìn bản chất của vấn
đề một cách độc lập. Hay nói một cách cụ thể là giáo dục phổ thông là tạo ra
những thế hệ có chỉ số đồng thuận (còn gọi là chỉ số cảm xúc cao: EQ: Emotional
Quotient), và chắc lọc ra những trẻ có chỉ số thông minh cao (Intelligence Quotient)
để đưa vào những trường dành cho thần đồng. Nên giáo dục phổ thông không cần
chuyên sâu, việc chuyên sâu dành cho trường dạy nghề, và trường đại học. Chúng
ta đã sai lầm khi đã cố gắng tạo ra những trường chuyên để áp đặt và vắt kiệt
tư duy trẻ ngay từ lúc chúng cần phát triển tư duy phản biện và sáng
tạo. Với cách chúng ta tạo ra những trường chuyên và những con số chỉ tiêu
lâu nay, nó đã dẫn đến có thể chúng ta có những trẻ phát triển lệch lạc về sự
tổng hòa các mối quan hệ xã hội ở những cá nhân mà ta cho là xuất sắc.
Ở các nước tiên
tiến có 3 loại chương trình phổ thông trong một trường học cho trẻ: nhưng chung
nhất là chương trình thông thường (regular program) cung cấp kiến thức
tổng quát, phi chính trị, tư duy độc lập và kỹ năng sống bằng những hoạt động
có tính cộng đồng. Từ đó chọn lựa ra những nhân tố khác biệt sẽ đưa đến những
chương trình phổ thông thuộc loại đào tạo ra những lãnh đạo hay loại đào tạo ra
những khoa học gia xuất chúng. Chương trình thứ hai là loại nhận những trẻ có
thiên hướng xuất sắc về xã hội học, có chỉ số đồng thuận cao, sẽ được đưa đến
những trường đào tạo ra những lãnh đạo tương lai, chương trình đào tạo này là
chương trình thiên về xã hội học còn gọi là chương trình IB(Internationa
Baccalaureate: tú tài quốc tế). Chương trình thứ ba là loại có thiên bẩm về
khoa học tự nhiên có chỉ số IQ cao thì được đưa vào những trường đào tạo thần
đồng để sau này trở thành khoa học gia xuất chúng. Chương trình này họ đào tạo
chương trình AP(Advanced Placement), ở chương trình này trẻ được đào tạo chương
trình khoa học tự nhiên của đại học ngay từ khi còn lúc ngồi trên ghế nhà
trường phổ thông. Họ không đào tạo đại trà nhưng chúng ta.
VAI TRÒ CỦA TƯ DUY PHẢN BIỆN
TRONG HỌC TẬP Ở BẬC ĐẠI HỌC
Nguyễn
Văn Tuấn
Hôm
qua, tôi đã giới thiệu các bạn bài phỏng vấn Gs Huỳnh Hữu Tuệ về chất lượng giáo dục đại học.
Hôm nay, tôi tiệp tục giới thiệu bài thứ 2 của anh Tuệ, bàn về phản biện trong
giáo dục đại học.
Học
là gi? Học chính là quá trình thu thập và chắc lọc kiến thức (cả về thông tin
cơ bản và phương pháp luận) một cách có hệ thống và biến nó thành máu thịt của
mình. Như thế học là một hoạt động thường trực, trong lúc còn là sinh viên và
ngay cả lúc đã ra đời. Nhờ đó, học tập giúp con người có đủ kiến thức, đủ
bản lĩnh để đánh giá và lấy quyết định, và như thế giúp con người nâng cao khả
năng đối diện với các vấn đề mà cuộc đời đặt ra, dù là trong lĩnh vực chuyên
môn hay trong lĩnh vực xã hội. Để đạt dược mục tiêu đó, trong lúc còn ngồi trên
ghế nhà trường, sinh viên cần nắm vững phương pháp học tập để tôi luyện bản
lĩnh cá nhân, xây dựng động lực học tập giúp cá nhân càng ngày càng trở nên
tích cực hơn, và chấp nhận trách nhiệm của mình đối với bản thân và đối với xã
hội. Học thật sự để trở thành một người có khả năng tư duy độc lập, nâng cao
khả năng tư duy phản biện và khả năng sáng tạo, để trở thành một người hữu ích
cho xã hội. Khả năng sáng tạo phụ thuộc
khá nhiều vào tố chất cá nhân; nhưng tư duy độc lập và tư duy phản biện lại phụ
thuộc khá nhiều vào chất lượng đào tạo và học tập của môi trường giáo dục.
Học
tập giúp sinh viên phát triển đời sống trí tuệ của mình; hoạt động trí tuệ lại
là cơ sở của khả năng tư duy độc lập và tư duy phản biện. Như thế, chất lượng
tư duy phụ thuộc chặt chẽ vào quá trình phát triển trí tuệ. Có nhiều mô hình về
quá trình phát triển trí tuệ; tuy nhiên tất cả mô hình đều có một số điểm cơ
bản giống nhau, được chia ra một số giai đoạn (W. G., Jr. Perry, Forms of
intellectual and ethical development in the college years: A scheme. Holt, Rinehart &
Winston, New York,
1968, được trích dẫn lại trên trang Web http://www.cmu.edu/teaching
/index.html, thuộc Đại học Carnegie Mellon)
Giai đoạn 1 đối ngẫu (dualism):
trong giai đoạn phát triển sơ khởi này, sinh viên thường nhìn cuộc đời
dưới dạng tốt-xấu, trắng-đen; và trong suy nghĩ của sinh viên ở giai đoạn
này, kiến thức thu thập là rõ ràng minh bạch, không có mập mờ; học tập đơn giản
chỉ là một quá trình trao đổi thông tin. Đối với họ, người thầy giảng bài tức là trình bày những kiến thức
mới dưới dạng sự kiện; và sinh viên chỉ cần học thuộc lòng là hoàn thành
nhiệm vụ học tập. Ở giai đoạn đối ngẫu này, sinh viên sẽ bức xúc nếu người thầy
cho những câu trả lời có điều kiện, hoặc là không trả lời mà lại đặt ra những
câu hỏi khác.
Giai đoạn 2 đa dạng (muliplicity):
giai đoạn kế tiếp bắt đầu lúc sinh viên nhận thức được
rằng ngay những chuyên viên cao cấp có lúc cũng chưa hẳn đồng ý với nhau trên
một số vấn đề và đôi lúc còn hoàn toàn có quan điểm đối lập nữa. Đối với sinh
viên ở giai đoạn phát triển này, mọi
chuyện đều phục thuộc vào viễn ảnh và ý kiến cá nhân. Họ cảm thấy đủ sức để tự
mình suy nghĩ, và cũng đủ sức để đặt lại vấn đề về những kiến thức do người
thầy truyền đạt. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, người sinh viên chưa hẳn đã đủ
sức để đánh giá những cái nhìn khác nhau, và hẳn cũng chưa đủ sức để đưa ra
những lập luận nhằm khẳng định quan điểm của mình. Và ở giai đoạn này, sinh
viên xem đánh giá của người thầy đối với cá nhân mình là hoàn toàn có tính chủ
quan.
Giai đoạn 3 tương đối hóa (relativism):
trong giai đoạn phát triển tương đối phức tạp tiếp
theo, sinh viên nhận thức rõ tầm quan
trọng của chứng cớ và lý luận lúc tìm cách nâng cao tính thuyết phục quan
điểm của mình. Người sinh viên ở giai đoạn này chấp nhận người khác có thể
không đồng ý với cái nhìn của họ; và ngay cả ý kiến của lãnh đạo cũng cần được
phân tích và phản biện cẩn thận, chứ không nhất quyết là nhắm mắt tuân thủ
tuyệt đối. Cũng như ở trong các giai đoạn trước, bây giờ họ có thể có
những suy nghĩ quyết liệt; tuy nhiên những suy nghĩ này đã được họ phân tích và
đánh giá một cách nghiêm túc. Ở giai đoạn này, sinh viên bắt đầu nhìn thầy của
mình với một cặp mắt khác: người thầy là một người hướng đạo có trình độ và
cũng là một người đồng hành trong lĩnh vực tư duy trao đổi ý kiến, chứ không
phải là một người lãnh đạo không hề có sai lầm, mà cũng không phải chỉ là một
người nào đó có quan điểm khác mình.
Giai đoạn 4 chấp nhận trách nhiệm của một trí thức (commitment):
theo Perry, giai đoạn cuối của quá trình phát triển
trí tuệ không phải là bước nhảy vọt về mức độ phức tạp của trí tuệ,
mà đúng hơn là cách tiếp cận vấn đề; áp
dụng tất cả những kiến thức thu lượm được trong giai đoạn tương đối hóa để đưa
ra những lựa chọn hay những quyết định dựa trên những phân tích và tư duy phản
biện.
Theo
Baxter-Magolda (M.B. Baxter-Magolda, Knowing and reasoning in college:
Gender-related patterns in students' intellectual development, Jossey-Bass,
San Francisco, 1992) thì lúc sinh viên ghi danh vào đại học, mức độ trí tuệ của
họ thấp hơn rất nhiều so với những gì ta hình dung, và trong quá trình học tập
ở đại học (hệ thống 4 hoặc 5 năm), trí tuệ của họ cũng không phát triển đến mức
độ mà ta hy vọng. Đồ thị sau đây, dựa trên một điều tra diện rộng trên toàn
nước Mỹ, cho thấy mức độ phát triển trí tuệ của sinh viên.
Ta
nhận thấy cách suy nghĩ đối ngẫu giảm dần và tư duy đa dạng phát triển theo
thời gian; tuy nhiên cách tư duy tương đối lại phát triển khá chậm, không đạt
đúng mức ta mong đợi.
Cố
nhiên, kết quả học tập phụ thuộc vào nhiều yếu tố, vừa chủ quan, vừa khách
quan. Nhưng theo tôi, yếu tố chính yếu nhất vẫn là phương pháp học tập. Để
trí tuệ được phát triển toàn diện, sinh viên phải có phương pháp học tập đúng
đắn.
MỘT NỀN GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI
Tóm lược ý của Nhóm Cánh buồm
I. Hiện đại hóa
1. Xã hội hiện đại hóa
Tiêu
chuẩn duy nhất - dấu hiệu duy nhất - để xác định tính hiện đại trong xã hội
là sự thay thế xã hội nông nghiệp bằng
một xã hội công nghiệp.
Điều
cần lưu ý: xã hội công nghiệp không thay
thế xã hội nông nghiệp theo lối đột ngột mà diễn ra trong tiến trình công
nghiệp hóa dần dần. Điều vô cùng quan trọng là sự diễn ra trong tâm lý con
người trong suốt tiến trình công nghiệp hóa.
Một ví dụ là cách
dùng ốc vít: khi cần gá lắp những bộ phận cứng như sắt thì con người dễ chấp
nhận dùng ốc vít - cách làm theo lối
công nghiệp. Nhưng khi khi gá lắp những bộ phần mềm như gỗ, rất nhiều công nhân
lâu đời vẫn dùng búa đóng đinh như thường.
Quá trình công nghiệp hóa, cần nhìn nhận ở
hai mặt: Nền công nghiệp và con người của nền công nghiệp cùng sinh thành lẫn
nhau.
2.
Nhà trường hiện đại hóa
Dấu hiệu cơ bản - nguyên lý về tính
chất hiện đại của nhà trường: một nhà trường hiểu biết sâu sắc trẻ em nhờ
đó mà vừa tôn trọng trẻ em đồng thời vẫn dắt tay dẫn trẻ em vào công cuộc tự học, tự giáo dục của chính
các em.
Trẻ
em cũng cùng sinh thành với nền giáo dục
tạo cho các em năng lực sống và cùng sinh thành với công cuộc công nghiệp
hóa để hiện đại hóa đất nước.
3.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Điểm giống và
khác nhau giữa người lớn và trẻ em trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước:
-
Giống nhau: cùng đều phải bắt tay vào làm ra chính mình trong khi làm ra nền
công nghiệp để hiện đại hóa đất nước (người lớn) hoặc làm ra nền giáo dục hiện
đại hóa (trẻ em). Cả người lớn và trẻ em đều phải mó tay vào làm và học - làm thì học (learning by doing)
-
Khác nhau: trong công cuộc làm và học - làm thì học, làm tới đâu thì học được
tới đó thì giữa người lớn và trẻ em có một điểm khác nhau căn bản:
+
Đối với người lớn thì dùng công cụ có sẵn; công cụ có sẵn gửi trong công việc
người lớn nắm giữ để công nghiệp hóa đất nước. Kỷ luật lao động công nghiệp hóa
chính là thước đo mức độ người lớn đã sinh thành tới đâu với công cuộc hiện đại
hóa đất nước.
+ Đối với trẻ em: Các em tập làm ra công cụ. và là những công cụ chuẩn cho sự nghiệp
hiện đại hóa. “Công cụ” nhà trường dạy cho các em “tự” làm ra gi? Đó
là loạt công cụ trong tư duy của các em. Bộ công cụ học tập các em phải tạo ra
ngay trong đầu các em, và đó phải là công cụ hiện đại hóa.
II. Sản phẩm của nền giáo dục phổ thông
Xem nhà trường như
một xí nghiệp thì sản phẩm cuối cùng của xí nghiệp nhà trường là như thế nào?
Sản
phẩm do nhà trường phổ thông tạo ra gồm một mặt là nằm trong kỹ năng của học
trò, còn mặt nữa nằm trong tâm lý người được nhà trường đào luyện.
-
Việc dạy thể thao trong nhà trường phổ thông là để một mặt học sinh biết cách
thực hiện những môn thể thao phổ biến nhất và mặt kia là năng lực thể thao - đó
là tâm lý tự tin.
-
Việc dạy toán ở trường phổ thông thì sản phẩm là các kỹ năng toán của học sinh
là biết cộng, trừ, biết giải phương trình, biết tính đạo hàm… còn mặt kia của
sản phẩm là tư duy logic - toán.
-
Việc dạy môn tiếng Việt ở trường phổ thông thì sản phẩm một mặt là kỹ năng viết
đúng chính tả, dùng đúng từ, nói và viết đúng câu, đọc hiểu và viết đúng logic
của từng đoạn văn tiến đến cả một văn bản. Còn mặt kia của năng lực tiếng Việt
là tinh thần tôn trọng tính chuẩn xác của ngôn ngữ.
-
Việc dạy môn tiếng nước ngoài ở trường phổ thông thì sản phẩm một mặt là kỹ
năng am tường và sử dụng một ngoại ngữ. Mặt khác của sản phẩm là phải có tinh
thần tôn trọng một nền văn hóa khác với cái văn hóa truyền thống của mình.
-
Việc dạy môn văn ở trường phổ thông thì sản phẩm một mặt là học sinh biết được
cách thức người nghệ sỹ làm ra tác phẩm theo một thể loại xác định. Nhà trường
lấy những mẫu văn thơ để dạy cho học sinh biết cách làm ra một tác phẩm văn, từ
đó biết được một ngữ pháp nghệ thuật.
Vận dụng ngữ pháp nghệ thuật học được qua môn văn để hiểu được những loại hình
nghệ thuật khác. Còn mặt kia của sản phẩm là những xúc cảm mỹ học tạo năng
lượng sống cho con người. Ngữ pháp nghệ thuật giúp trẻ em hiểu đúng cách biểu
đạt ngôn ngữ nghệ thuật. Có cái gốc đó thì mới có xúc cảm mỹ học đúng.
Vậy, đối với nhà trường phổ thông, toàn bộ các
chi tiết năng lực văn, ngôn ngữ, toán, lý, hóa, sức khỏe, đạo đức…sẽ được “lắp
ráp” thành sản phẩm “xuất xưởng” như thế nào? Đó là một học trò biết làm việc.
Sản phẩm đó vẫn là cậu học trò chưa phải là một người lao động có ngề đích
thực; song đã có những yếu tố đúng nhất của một người lao động - sự
biết làm. “làm” ở đây là gì? Đó là tập làm và tuy là “tập” nhưng phải
làm đúng - đó biết làm việc đúng đối tượng. Nghĩa là các em biết cách học, nói
cách khác biết chiếm lĩnh các đối tượng khác nhau: toán khác với văn, khác với
ngôn ngữ, khác với đạo dức..Từ đó trong tư duy các em sẽ có mặt thứ hai của sản
phẩm, đó là cái tinh thần luôn biết tự giao nhiệm vụ cho mình: ta phải làm gì?
Ta làm để đạt mục tiêu gì? Ta làm bằng cách gì để đạt mục tiêu đó?.
Cách học ở tiểu
học mang tính chất học phương pháp học
Bậc
trung học sẽ mang tính chất tập nghiên
cứu
Bậc
cao đẳng, đại học sẽ tập nghiên cứu độc
lập.
III. Sách giáo khoa của trường học phổ
thông
“Sách
giáo khoa” là một sự vật, một thực thể nên nó có nhiều hình thái khác nhau; hay
nói cách khác có nhiều phương thức tồn tại của “sách giáo khoa”.
Lý
thuyết hoạt động coi sách giáo khoa là những điều Thầy và Trò cùng nhau tìm ra
trong tiết học.
Có 3 hình thái khác nhau của sách giao khoa:
1.
Hình thái thứ nhất và là hình thái cơ bản của sách giáo khoa chính là các việc làm của học sinh do giáo viên tổ
chức trong từng tiết học.
2.
Hình thái thứ 2 của sách giáo khoa là những
gì đọng lại trong đầu óc học sinh sau mỗi tiết học.
Cuối
tiết học học sinh nói lại những điều đã học cụ thể hơn và đẽ dàng một cách tự
nhiên là kể lại những việc đã làm trong tiết học nếu là một lớp học theo lý
thuyết hoạt động. Sau khi đã kể những việc đã làm, học sinh ghi lại những điều
gì cần ghi nhớ hơn cả ( có thể có nhiều cách ghi tùy theo từng học sinh)
3.
Hình thái thứ 3 của sách giáo khoa là dự
kiến những kiến thức gì sẽ đem lại cho học sinh.
Những
kiến thức dự kiến đem lại cho học sinh không được cung cấp một cách tùy tiện.
Mà sách giao khoa phải trả lời 2 câu hỏi:
-
Các học sinh sẽ làm như thế nào để chiếm lĩnh cho mình những kiến thức đó?
-
Các kiến thức do học sinh thực hiện có diễn ra tuần tự thành chuỗi việc làm
không? Việc làm trước có dẫn sang việc làm sau một cách logic không?
Tóm lược
Như vậy “tầng nấc phát triển tư duy” của con
người từ khi bắt đầu đi học tiểu học cho đến khi tốt nghiệp đại học theo BS Hồ
Hải, GS Huỳnh Hữu Tuệ và Nhóm Cánh Buồm có thể tóm tắt như sau:
BS Hồ Hải:
Mỗi
cấp lớp trẻ có một nấc tư
duy khác nhau, trẻ tiểu học có tư duy chân thật, một bước, chỉ biết
ghi nhận. Trẻ trung học đệ nhất cấp (cấp 2) có tư duy hai bước, hay còn gọi là
tư duy suy diễn. Sau khi ghi nhận trẻ bắt đầu suy luận đúng sai. Trẻ bắt đầu
nhận biết đúng sai. Lên đến trung học đệ nhị cấp (cấp 3) trẻ sau khi suy luận
đúng sai một sự vật hiện tượng, trẻ chuyển sang tư duy tới hạn, hay còn gọi là
tư duy phản biện. Lúc đó trẻ bắt đầu đưa ra chính kiến để phản biện và hướng
giải quyết một vấn đề
GS Huỳnh Hữu Tuệ:
Có nhiều mô hình
về quá trình phát triển trí tuệ (sinh viên); tuy nhiên tất cả mô hình đều có
một số điểm cơ bản giống nhau, được chia ra một số giai đoạn:
Giai đoạn 1 đối ngẫu (dualism): trong giai đoạn phát triển sơ khởi này, sinh viên thường nhìn cuộc đời
dưới dạng tốt-xấu, trắng-đen; và trong suy nghĩ của sinh viên ở giai đoạn
này, kiến thức thu thập là rõ ràng minh bạch, không có mập mờ; học tập đơn giản
chỉ là một quá trình trao đổi thông tin.
Giai đoạn 2 đa dạng (muliplicity): giai đoạn kế tiếp bắt đầu lúc sinh viên nhận thức được
rằng ngay những chuyên viên cao cấp có lúc cũng chưa hẳn đồng ý với nhau trên một
số vấn đề và đôi lúc còn hoàn toàn có quan điểm đối lập nữa. Đối với sinh viên
ở giai đoạn phát triển này, mọi chuyện
đều phục thuộc vào viễn ảnh và ý kiến cá nhân. Họ cảm thấy đủ sức để tự mình
suy nghĩ, và cũng đủ sức để đặt lại vấn đề về những kiến thức do người thầy
truyền đạt.
Giai đoạn 3 tương đối hóa (relativism): trong giai đoạn phát triển tương đối phức tạp tiếp
theo, sinh viên nhận thức rõ tầm quan
trọng của chứng cớ và lý luận lúc tìm cách nâng cao tính thuyết phục quan
điểm của mình. Người sinh viên ở giai đoạn này chấp nhận người khác có thể
không đồng ý với cái nhìn của họ.
Giai đoạn 4 chấp nhận trách nhiệm của một trí thức (commitment): theo Perry, giai đoạn cuối của quá trình phát triển
trí tuệ không phải là bước nhảy vọt về mức độ phức tạp của trí tuệ,
mà đúng hơn là cách tiếp cận vấn đề; áp
dụng tất cả những kiến thức thu lượm được trong giai đoạn tương đối hóa để đưa
ra những lựa chọn hay những quyết định dựa trên những phân tích và tư duy phản
biện.
Theo
Baxter-Magolda (M.B. Baxter-Magolda, Knowing and reasoning in college:
Gender-related patterns in students' intellectual development, Jossey-Bass,
San Francisco, 1992) thì lúc sinh viên ghi danh vào đại học, mức độ trí tuệ của
họ thấp hơn rất nhiều so với những gì ta hình dung, và trong quá trình học tập
ở đại học (hệ thống 4 hoặc 5 năm), trí tuệ của họ cũng không phát triển đến mức
độ mà ta hy vọng. Đồ thị sau đây, dựa trên một điều tra diện rộng trên toàn
nước Mỹ, cho thấy mức độ phát triển trí tuệ của sinh viên.
Ta
nhận thấy cách suy nghĩ đối ngẫu giảm dần và tư duy đa dạng phát triển theo
thời gian; tuy nhiên cách tư duy tương đối lại phát triển khá chậm, không đạt
đúng mức ta mong đợi.
Nhóm Cánh buồm:
Cách học ở tiểu
học mang tính chất học phương pháp học
Bậc
trung học sẽ mang tính chất tập nghiên
cứu
Bậc
cao đẳng, đại học sẽ tập nghiên cứu độc
lập.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét