This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Trilemma Thống đốc Bình là Dilemma quốc gia

Hiệu Minh và đồng nghiệp

Tay Cua IT này từng bẻ chữ Nho, bàn về Kinh tế và hàm răng, dù chẳng biết tý nào, nên blog Cua thành hổ lốn. Được cái may là bạn đọc quá giỏi, nên giúp cho những bài viết “kiễng chân” vẫn đứng vững.
Trilemma – Impossible Trinity
Hôm nay xin bàn về khái niệm Trilemma – một trong ba cái khó – còn khó nữa. Mong các cụ thông cảm, nhưng chương trình học thuật cần tiếp tục, dù “giáo sư” Cua có vấn đề về trí tuệ.
Trilemma – Bộ ba bất khả thi
Rất may, một đồng nghiệp bên WB, email cho biết. Các nhà kinh tế vĩ mô đã đưa ra khái niệm “impossible trinity – “tam pháp bất khả thi”, hoặc “bộ ba bất khả thi” – ý nói không thể duy trì đồng thời 3 yếu tố: (1) Tỷ giá cố định, (2) Tự do chu chuyển dòng vốn (hàm ý tới dòng vốn ngoại đổ vào từ bên ngoài) và (3) Chính sách tiền tệ độc lập.
Bộ ba này trong tiếng Anh còn được gọi là Trilemma, chơi chữ như Dilemma – vấn đề đau đầu khi phải chọn một trong hai.
Nói nôm na về Trilemma, để phát triển kinh tế hay giữ nhịp độ, chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba chính sách này mà thôi.
Xin nhắc lại, chỉ hai trong ba: (1) tỷ giá cố định và tự do chu chuyển dòng vốn, hoặc (2) tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ độc lập; hoặc (3) tự do chu chuyển dòng vốn và chính sách tiền tệ độc lập vv.
Về lý thuyết, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái với giả định là vốn được tự do lưu chuyển qua biên giới quốc gia đều có quan hệ với nhau.
Khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên. Nếu chính sách tiền tệ thắt chặt thì tỷ giá giảm đi. Do đó, áp dụng chế độ tỷ giá cố định, thì chính sách tiền tệ không thể thay đổi linh hoạt được.
Nếu có quốc gia nào cố gắng thực hiện cả ba chính sách trên đồng thời thì điều gì sẽ xảy ra. Kinh tế tăng trưởng nhanh, vốn nước ngoài sẽ chảy vào trong nước gây ra áp lực tăng giá nội tệ. Khi đó, ngân hàng trung ương muốn bảo vệ chế độ tỷ giá cố định thì phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng.
Song điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu thông dẫn đến tăng tốc lạm phát. Muốn lạm phát không tăng tốc, thì phải thực hiện chính sách thanh khoản đối ứng. Nhưng như thế thì vốn nước ngoài càng chảy vào nhiều.
Đầu thập niên 1990, một số nước châu Á đã cố gắng thực hiện đồng thời ba chính sách và hậu quả là rơi vào khủng hoảng hết sức tồi tệ.
Vị đồng nhiệp cũng cho biết, tại một nước “quen” vào những năm 2006-2008, vốn bên ngoài đổ vào ồ ạt, với khối lượng lớn. Nhưng quốc gia đó lại muốn duy trì tỷ giá cố định bằng cách can thiệp thị trường (mua đô la), tức là tăng lượng tiền nội tệ ra thị trường.
Trong hoàn cảnh đó, Ngân hàng TƯ phải tăng lãi suất, hoặc phát hành trái phiếu để thu hút nội tệ.
Tuy vậy, bên Chính phủ lại muốn có tăng trưởng cao nên duy trì lãi suất thấp tự do, gây ra tình trạng overheating – kinh tế phát triển quá nóng. Hình như chuyện này cũng kéo theo nhiều hệ lụy bởi những cái đầu chứa toàn IT hay YT gì đó lại quản lý KT vĩ mô.
Ôm cả ba là không thể, ôm hai thì OK. Như vậy có 1 bồ, 1 vợ thì OK, nhưng hai bồ, 1 vợ hay hai vợ một bồ là tan cửa nát nhà.
Tỷ giá cố định của Hoa Kỳ 1944-1971
Tìm tin trên internet mới biết, trên thế giới đã từng có chuyện về tỷ giá cố định do Mỹ cầm đầu. Hội nghị Bretton Woods diễn ra ở New Hamshire, Hoa Kỳ, năm 1944, thống nhất mức tỷ giá cố định cho các đồng tiền chính và cho phép ngân hàng trung ương được can thiệp vào thị trường tiền tệ.
Chế độ Bretton Woods quy định một ounce vàng có giá 35 đôla Mỹ và kéo dài từ năm 1944 đến năm 1971.
Tại thời điểm đó, lạm phát và thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ gia tăng đã làm suy giảm giá trị đồng đôla.
Hội nghị Bretton Woods 1944
Hoa Kỳ cố thuyết phục Đức và Nhật Bản, là hai nước đều có cán cân thanh toán thuận lợi, tăng giá trị các đồng tiền của họ. Nhưng các quốc gia này miễn cưỡng chấp nhận bước đi này, vì việc tăng giá trị đồng tiền của họ sẽ làm tăng giá hàng hóa của các nước đó và gây tổn hại đến xuất khẩu của họ.
Cuối cùng, Hoa Kỳ đã bỏ giá trị cố định của đồng đôla và cho phép đô la được thả nổi – tức là cho dao động đối với các đồng tiền khác. Đồng đôla ngay lập tức hạ giá.
Tỷ giá cố định Bretton Woods đã giới hạn hoạt động chi tiêu của Hoa Kỳ và thế giới do lượng vàng sở hữu là có hạn trong khi nhu cầu sử dụng tiền lại lớn hơn rất nhiều.
Hoa Kỳ in tiền phục vụ cho việc tài trợ cho Chiến tranh Việt Nam hoặc viện trợ cho các nước khác đã khiến đôla mất giá và tăng lạm phát. Cuộc chiến VN ảnh hưởng mọi mặt tới cả thế giới.
Để xóa bỏ sự bất hợp lý trên, vào tháng 8 năm 1971, Tổng thống Nixon đã phải rút hẳn khỏi hệ thống Bretton Woods và tiến hành thả nổi đồng đô la. Bây giờ thì nó đang trôi nổi khắp thế giới, muốn tỷ giá nào cũng OK.
Giải Ig Nobel cho anh Bình – Thống đốc
Bây giờ bàn chuyện phát biểu của anh Bình tại Quốc hội. Thấy bà con chửi om xòm về lời phân trần trước QH của Thống đốc NHNN, mình chẳng hiểu anh nói sai chỗ nào.
Mình vẫn tin các quan, nhất là các quan cầm cân nẩy mực cho nền kinh tế quốc gia. Bảo mua vàng là mình mua vàng, bảo bán vàng là mình bán tắp lự, chỉ tội nhà này không có vàng.
Trong lúc trả lời chất vấn của đại biểu Trần Du Lịch, Thống đốc Bình nói “Người ta tìm ra bộ 3 bất khả thi giữa tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá, ông đó được quốc tế cho giải thưởng Nobel. Vậy mà hiện nay chúng ta phải vừa làm sao kiềm chế được lạm phát mà vẫn phải tăng trưởng. Tôi đã có lần nói đùa với Chủ tịch Quốc hội là em chỉ cần nửa giải thưởng Nobel cũng được, nếu em làm được một trong hai”.
Giải Ig Nobel
Ông đại biểu Nguyễn Trí Dũng cự lại là ông Bình nói như thế là “không chính xác” bởi ông Dũng cho rằng “Thật ra “bộ ba bất khả thi” đề cập tới ba mục tiêu là ổn định tỉ giá, tự do hóa dòng vốn và chính sách tiền tệ độc lập. Như vậy, thống đốc hoặc chưa hiểu chính xác về lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, hoặc cố lấy sự thông cảm để né câu hỏi của đại biểu.”
Ông Trí Dũng đãng trí một chút. Ổn định tỷ giá khác với tỷ giá cố định, ông cũng nhầm khái niệm một cách tai hại, dù khen cho ông đã tấn công Thống đốc rất đúng lúc.
Tuy nhiên so với Thống đốc thì lỗi của ông Trí Dũng chưa là gì. Làm tới thống đốc Ngân hàng Nhà nước mà không nhớ nổi thế nào là bộ ba bất khả thi, một khái niệm vỡ lòng trong kinh tế.
Tôi tìm định nghĩa Trilemma kia thì không thấy có chữ nào là Tăng trưởng, Lạm phát. Có mỗi từ Tỷ giá được ông nhắc đến nhưng cũng không biết là tỷ giá đó là cố định hay trôi nổi.
Xin viết lại cho ông Bình rõ Trilemma nhé. Đó là (1) Tỷ giá cố định; (2) Tự do chu chuyển dòng vốn; và (3) Chính sách tiền tệ độc lập. Xin các cụ trong hang Cua cũng học cho thuộc trước khi bình về anh…Bình.
Phát biểu trước Quốc hội, với hàng chục triệu người theo dõi trên tivi, xin ông Bình nói chính xác tới từng từ. Thống đốc Ngân hàng NN mà hiểu mơ hồ cái bộ ba kia như thế thì rất lo cho đất nước này.
Thay vì xét giải Nobel như ông đùa, có lẽ cái giải Ig Nobel của đại học Harvard – dành cho những phát minh điên rồ và ngu dại – thì may ra họ xét tới.
Xin nói thêm, ba vấn đề tưởng chừng bất khả thi theo quan điểm của Thống đốc Bình (tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá), trong thực tế, vẫn có thể được triển khai gần như song song trong bất cứ nền kinh tế nào. Đó là những nhiệm vụ và chức năng cơ bản của các Ngân hàng Trung ương trên thế giới.
Như vậy, cái sai của anh Bình không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, nó chỉ đi từ cái sai này sang cái sai khác
Gần đây, các quan chức của Ngân hàng Nhà nước Việt nam (SBV) thường hay nói đến lạm phát mục tiêu (inflation targeting) trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình
Để làm được điều này cần phải hội tụ được những điều kiện như sau: (i) Ngân hàng trung ương (SBV) phải xác định lạm phát mục tiêu là nhiệm vụ hàng đầu của chính sách tiền tệ; (ii) Mục tiêu lạm phát không được đặt thấp hơn các mục tiêu khác; (iii) Chính sách tiền tệ không bị áp đảo bởi các ưu tiên tài khóa; (iv) Ngân hàng trung ương phải có đủ công cụ chính sách để kiểm soát lạm phát theo nguyên tắc thị trường.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay SBV dường như không có nhiều dư địa để thực hiện các nhiệm vụ cơ bản với tư cách là một Ngân hàng trung ương độc lập.
Viết tới đây, tôi bỗng nhớ khái niệm “hộp đen” mà một thời các vị lãnh đạo cao cấp Việt Nam luôn nói trên cửa miệng. Nói hộp đen mà chẳng hiểu hộp đen hoạt động ra sao. Cho tới khi có bài báo ngắn của Giáo sư Phan Đình Diệu lên án về nạn sính chữ trong các quan, thì hộp đen mới thôi xuất hiện trên tivi, radio và báo chí.
Các cụ đã dạy rồi “thà dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”. Không biết thì viết blog như Tổng Cua, đúng sai có các bạn đọc góp ý và sửa ngay.
Xin đừng để “Trilemma” của Thống đốc thành Dilemma của đất nước này.


HM và một đồng nghiệp X. 20-11-2012

Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam

Trần Ngọc Vương

Sĩ phu, trí thức Việt Nam xưa.
Để xây dựng kinh tế tri thức trở thành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chúng ta cần có một lực lượng lao động tương ứng là lao động có kiến thức cao, nói khác đi đòi hỏi mọi thành viên tham gia nền kinh tế này phải là người lao động trí tuệ hoặc sử dụng trí tuệ như công cụ lao động chủ yếu, đặc biệt là phải hình thành một giới trí thức tinh hoa.
Chỉ từ những điều sở tri sở kiến của mình, chúng tôi muốn góp bàn về việc nhận diện thực trạng của giới tinh hoa trong lịch sử Việt Nam và những đặc điểm của giới đó có thể trở thành chướng ngại mà chúng ta cần khắc phục trong việc hướng tới hình thành giới tinh hoa mới trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Trong lịch sử Việt Nam cho đến tận đầu thế kỷ XX, mẫu hình trí thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là nhà Nho. Tinh thần văn hóa Nho giáo thấm sâu vào thành truyền thống, thậm chí thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Về mặt diện mạo tổng thể, nền văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX là nền văn hóa Nho giáo. Nếu lưu ý đến “đặc điểm lớn nhất của xã hội Việt Nam thời đại ngày nay” là sự phát triển bỏ qua (hay ít nhất là cho đến nay cũng chưa thành một phương thức sản xuất/một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh) đối với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, thì phải đồng ý với nhiều nhà khoa học (1) rằng Việt Nam đi từ Nho giáo lên chủ nghĩa cộng sản.

Trước khi có nền học vấn Âu hóa của thời hiện đại, và cả khi nền học vấn đó đã, đang trở thành xu thế chủ đạo thì quán tính của nền học vấn truyền thống vẫn chi phối từng bước đi của lịch sử một cách mạnh mẽ, khá vô hình nhưng vẫn khá quyết liệt. La mort saisit le vif, - cái chết đang túm lấy cái sống. Sự “túm lấy” này, tuy không hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, nhưng những tác động tiêu cực của nó là điều không thể xem thường.


Trong vòng bảy, tám thế kỷ, đội ngũ trí thức - nhà Nho ở Việt Nam đã dần thay thế và cuối cùng là thay thế hẳn đội ngũ trí thức Phật giáo, tạo ra một nền học vấn kiểu nhà Nho, và vì thế, ngả theo mô hình của nền học vấn Trung Hoa. Nhưng khác với các trí thức Trung Hoa nói chung, tầng lớp nhà Nho Trung Hoa nói riêng, chưa bao giờ tầng lớp nhà Nho Việt Nam thực sự có được sự độc lập tương đối về chính trị, nhất là trong quan hệ với chế độ chuyên chế, để có thể có được những thành tựu độc lập trong sáng tạo tri thức và những giá trị tinh thần đủ để vinh danh chỉ riêng tầng lớp của mình.

Vào đầu thế kỷ XX, khi tự tỉnh và lay tỉnh quốc dân, nhằm “khai dân trí, chấn dân khí”, các nhà Nho duy tân đã đọc to lên tình trạng nghiệp dư quá quắt của tầng lớp mình:
Khỏi làng mắt chửa thấy xa
Lại toan mai mỉa hai nhà Khang, Lương
Ở nhà chân chửa ra đường
Lại toan ngang dọc bốn phương giang hồ
Hỏi: “Ông tu những đường mô?
Ông rằng: “Tu những làng nho đã thừa”
Hỏi: “Ông mộ những gì ư?
Ông rằng: “Mộ những người xưa là thầy”….
- Hỏi rằng: “Dây thép sao mau?”
Ông rằng: “Khí học cũng màu mà thôi”
Kìa như dây sắt, roi lôi
Nào ai bày đặt mọi ngôi cho đành?
Hỏi rằng: “Xe khí sao nhanh?”
Ông rằng: “nghề máy cũng lành mà thôi”
Kìa như lửa ống, nước nồi
Nào ai bày xét đến nơi nhiệm màu?
Năm châu tên gọi hay đâu
Lại chê người rợ mà gào ta hoa
Mắt nhìn chính học không ra
Lại chê người bá mà nhà ta vương” (4)
-“Hỏi cụ việc thực
Thì cụ làm thinh
Hỏi trận pháp binh thư thì cụ ù ù cạc cạc
Hỏi địa dư quan chế thì cụ u u minh minh;
Cụ chẳng biết kèn sao kêu, súng sao nổ?
Cụ không hay xe sao chóng, tàu sao lanh?
-“Khí học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng Thư trù chi Cổ đế
Cơ khí là thế, điện khí là thế, cụ rằng mộc ngưu lưu mã chi Khổng Minh
Cụ phải đeo thẻ đóng sưu, cụ muốn nước Nhật, nước Tàu sang bảo hộ
Cự mà ngâm thơ đọc phú, cụ mong ông Chèm, ông Gióng chi phục sinh
Ai nói chuyện tân học tân văn, cụ ghét hơn người đầu thuốc độc
Ai dâng câu cổ thi cổ họa, cụ mừng hơn trẻ được cái đinh” (5)

Lý luận Nho giáo không được khái quát lên từ thực tế Việt Nam, mà lý luận đó chỉ phù hợp nên có thể vận dụng được trên thực tế Việt Nam ở những thời gian lịch sử nhất định, dù quãng thời gian lịch sử ấy có thể và trên thực tế đã kéo dài, thậm chí đã quá dài. Theo cách nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng tuy Phật giáo ở Việt Nam chỉ thật thịnh trong một khoảng thời gian không dài, nhưng lại có những thành tựu về sáng tạo tinh thần đột xuất và có những gương mặt trí tuệ đỉnh cao, khả dĩ vinh danh và đại diện cho trí tuệ Việt hơn cả những đóng góp mà nhà Nho tạo nên trong một thời kỳ lịch sử dài hơn nhiều.


Nhìn vào những sản phẩm đỉnh cao cuối cùng theo cách nhìn cấu trúc đồng đại hóa, sẽ thấy trong đội ngũ trí thức nhà Nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn. Các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Đình Hượu, Hà Văn Tấn đã nhiều lần lưu ý đến sự thiếu hụt ấy. Nói thiếu vắng hoàn toàn thì không phải, nhưng chắc chắn đội ngũ những người như vậy trong lịch sử Việt Nam khá thưa thớt, có những thế kỷ hầu như không tìm thấy được(2). Điều đáng cảm thán không chỉ là “ôi thương sao những thế kỷ vắng anh hùng” như Chế Lan Viên từng thốt lên, mà cũng cả “Ôi thương sao những thế kỷ vắng thiên tài”! Nhận xét tỷ mỷ hơn cả về điều này là ý kiến của cố học giả Trần Đình Hượu:

 a) Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học. Chưa có tác phẩm, tác giả chuyên về tư tưởng triết học. Những người mà ta phải tính là các nhà tư tưởng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là như vậy.

Loại hình chính là những nhà hoạt động yêu nước, những người làm văn học, học thuật (chủ yếu là sử học), và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay nghệ thuật của mình mà đề cập đến những vấn đề tư tưởng. Những ông thầy khi giảng kinh, sử cũng bàn những vấn đề tư tưởng, mà nhiều khi chính những ông thầy đó lại nói tư tưởng nhiều hơn, nói nhiều nhưng là nói lại, có hay không sửa chữa chút ít.

b) Ở đây chưa hình thành mối quan hệ tương hỗ giữa khoa học kỹ thuật và triết học, tức là triết học làm cơ sở lý luận cho khoa học và phát triển theo sự phát triển của khoa học… Có thay đổi thì cũng chỉ là lấy, bỏ, thêm, bớt từ những cái có sẵn trong và ngoài từng hệ thống…

Nhìn chung, tư duy lý luận không phát triển. Những vấn đề nhận thức, logic, phương pháp không được bàn bạc. Ở đây phát triển một cách tư duy thực tiễn nhằm không phải vào sự chính xác mà sự hợp lý (phải khoảng). Cái ngự trị ở trong nhiều phạm vi là một cái lí - lẽ phải thông thường. Triết học không tách khỏi tôn giáo, học thuật. “Về căn bản, trong lịch sử chưa xảy ra một sự thay đổi nền móng sản xuất, tổ chức xã hội, văn hóa, học thuật. Tôi nói cả văn hóa, học thuật vì khi còn học theo, bắt chước, nói lại thì chưa gây ra tác động sâu từ khoa học sang triết học, không tạo ra cách mạng trong tư tưởng” (3).

Nền học vấn truyền thống theo Nho giáo ấy rốt cuộc ở lớp trên cùng chỉ đẻ ra được nhà Nho – ông quan (đường quan hay học quan, võ quan có học hay văn quan, kể cả loại “văn võ kiêm bị” đi nữa thì nói gọn lại, cũng chỉ là quan). Các loại hình trí thức then chốt của một xã hội trí thức, một kết cấu của tầng lớp trí thức thực thụ như nhà kỹ thuật, nhà khoa học (hay học giả), nhà nghệ sĩ, tiếp đến là nhà tư tưởng – nhà triết học loại thì xuất hiện thưa thớt, mở nhạt, loại thì hoàn toàn vắng bóng.

Học giả lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX là Lê Quý Đôn, người mà với tất cả sự ngưỡng mộ và lòng kính trọng cũng không thể gán cho là tác giả của bất cứ định lý, định luật hay nguyên lý, quy tắc nào, ý tưởng nào thực thụ mang tính đột phá tri thức, nên có lẽ danh xưng xứng đáng nhất trong việc phân loại chuyên gia khoa học thời hiện đại thì đúng nhất là xếp vào dạng nhà sưu tầm, nhà biên khảo hay nhà thư tịch học. Thật đau lòng khi phải nói lên điều này.


Nhà Nho thuộc loại hình trí thức nguyên hợp. Đó là loại trí thức điển hình cho một hình thái kinh tế-xã hội khi mà lao động trí óc chỉ mới là đặc quyền của một thiểu số rất nhỏ. Tuy so với loại quý tộc, loại người có được những đặc quyền chỉ nhờ quan hệ huyết thống với người hay dòng họ cầm quyền thì sự xuất hiện và phát huy tác động trong xã hội của trí thức nhà Nho là một bước tiến bộ, nhưng đến lượt họ, khi đã tự khẳng định và được khẳng định địa vị trong xã hội, trong cơ chế thì nhà Nho cũng từng bước một kiến tạo đặc quyền theo lối huyết thống hóa, tạo ra không phải những cá nhân người trí thức sáng tạo, mà những “thế gia, vọng tộc, cự môn”, vừa theo mô hình quý tộc hóa, vừa theo lối đẳng cấp giữ những chức năng đặc thù. Họ không ngần ngại gì mà không khẳng định “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao”, tự coi là người bề trên tự nhiên (và cũng thường được thừa nhận) là người đỡ đầu trực tiếp của các tầng lớp cư dân khác.

Với tôn chỉ “Nhất nghệ bất tri nho giả sở sỉ” (một nghề nào đó mà không biết thì kẻ làm nhà Nho tự thấy xấu hổ), họ thường kiêm luôn công việc của nhiều loại “chuyên gia” trong nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí khá xa lạ đối với nhau. Người dân gọi họ là “thầy”, và ở nông thôn xưa thì nhà Nho làm tất tật công việc của các thứ thầy như vậy: thầy đồ dạy học (nho), thầy thuốc chữa bệnh (y), thầy địa lý lo chuyện phong thủy (lý), thầy bói xem tướng số (số), cả chuyện làm…thầy dùi, “tư vấn” cho các bên tham gia vào các vụ kiện tụng.


Bộ phận hiển nho - các nhà Nho hữu danh và thành đạt – cũng hầu như không có ai đủ căn đảm để chỉ “đi đến cùng một con đường đã chọn” có lẽ trừ Hải Thượng Lãn Ông. Ngay Hải Thượng Lãn Ông cũng chọn con đường trở thành một danh y vào lúc tuổi đời không còn trẻ và tình huống cơ hồ không thể khác. Nói tổng quát, mẫu trí thức nhà Nho ở ta chuyên môn hóa khá muộn màng và không trở nên là đội ngũ chuyên gia thực thụ, ở hầu như bất cứ bình diện nào của lao động sáng tạo tinh thần. Trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ thơ là có thành tựu nổi bật, nhưng không có ai, kể cả nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học dân tộc là Nguyễn Du, cũng không trở thành nhà thơ “chuyên nghiêp”.

Một khi họat động sáng tạo tinh thần, lao động trí óc chưa được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, thì mọi hoạt động lao động khác gắn liền với các hệ thống tri thức chuyên nghiệp sẽ chỉ trở thành các loại lao động thủ công, nghiệp dư. Tình trạng đó là phổ biến từ các loại làng nghề gắn bó xa gần với hoạt động nghệ thuật cho chí các loại làng nghề sản xuất ra các sản phẩm thuần túy mang tính thương mại. “

Công tượng”, gọi nôm na là thợ, xếp loại ba, sau nông dân, còn được an ủi là xếp trên loại người tiêu thụ sản phẩm cho họ, tức thương nhân, tầng lớp “dưới đáy”, bị gọi miệt thị là loại “con buôn”. Giữ gìn phương tiện mưu sinh: theo ý tôi trong cách hành xử ấy còn tiềm ẩn cả tâm trạng ẩn ức, cả sự chống đối theo kiểu tiêu cực, cả niềm kiêu hãnh về những phẩm tính và kỹ năng ưu việt không được thừa nhận.


***
Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp(6).

Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân.

Từ sau Cách mạng tháng Tám, thân phận con người, thân phận công dân của người trí thức được đổi thay về chất. Đại đa số những trí thức trong xã hội cũ vì thế hăng hái tham gia bằng sở học của mình vào các công việc của xã hội mới. Thời gian kháng chiến chống Pháp, tuy có quá nhiều khó khăn khách quan, một thế hệ trí thức mới đã xuất hiện, trưởng thành. Đội ngũ này, tuy về số lượng không thật đông đảo, nhưng lại đặc biệt có chất lượng. Đa số những tên tuổi lớn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và nghệ thuật thời gian qua ở ta là thuộc về hoặc cơ bản là thuộc về thế hệ này. Phần lớn họ là những người ra đời trong khoảng từ 1920-1932.

Không phải ngẫu nhiên tôi chọn những mốc này: cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, hầu hết họ đều đã có một thời kỳ học phổ thông và có được một “lưng vốn” tri thức nói chung, tiếng Pháp hay một ngoại ngữ nói riêng đủ để tự đọc sách và tự học tiếp tục. Những người sinh trước năm 1920 nếu thành danh thì đã thành danh trước Cách mạng, mà những người sinh sau năm 1932 thì “không kịp” có điều kiện như vừa tính tới.


Nhưng cũng từ sau Cách mạng tháng Tám xã hội Việt Nam trải qua hơn 30 năm là xã hội thời chiến hoặc bị chi phối mạnh mẽ bởi một hoàn cảnh thời chiến. Trừ một vài lĩnh vực đặc biệt, chiến tranh không phải là điều kiện dương tính cho sự phát triển của lĩnh vực lao động tri thức. Không quá khó khăn để chỉ ra các lĩnh vực đặc biệt ấy. Dù muốn dù không, tính phục vụ trực tiếp, tính ứng dụng là những yêu cầu được đặt lên hành đầu đối với lao động của người trí thức trong hoàn cảnh ấy. Cũng khó mà tạo ra những diện mạo trí thức, những tên tuổi lớn theo lối hàng loạt trong điều kiện như vậy. Xét cho cùng, sức sản xuất các giá trị tinh thần – cả trong khoa học xã hội lẫn khoa học nhân văn, cả trong nghệ thuật, trong văn hóa đều tùy thuộc vào nền sản xuất vật chất của xã hội. Ngay cả việc phản ứng lại một thực tiễn lớn cũng đòi hỏi tiền đề là sự tồn tại của cái thực tiễn ấy đã.

Mặt khác, kể từ sau Cách mạng tháng Tám, nền khoa học non trẻ của Việt Nam nhận được sự bổ sung về nguồn tri thức từ các nước xã hội chủ nghĩa có nền khoa học tiên tiến, chủ yếu là từ Liên Xô, và mức độ khác, từ Trung Quốc. Nhưng chỉ chưa hết một khóa học (đại học) từ sau năm 1954 thì giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Vừa bối rối vì vấn đề phân liệt giữa các đảng cộng sản lớn cầm quyền, hết chống tệ sùng bái cá nhân lại rơi vào tình trạng phải đối phó với chủ nghĩa xét lại, người trí thức mới trẻ tuổi vừa còn phải “tuân thủ mọi yêu cầu của tổ chức, mọi nhiệm vụ được phân công” mà không phải lúc nào những yêu cầu ấy, những sự phân công ấy cũng được kế hoạch hóa, duy lý hóa. Tiếp theo đó là Đại Cách mạng văn hóa, mà một trong những đặc điểm nổi bật của cái gọi là cuộc Đại Cách mạng văn hóa này lại chính là ở tính chất phản văn hóa, phản tri thức của nó, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố kinh hoàng này.
Giới trí thức tinh hoa ở mọi dân tộc đều là báu vật, nói như ngôn từ được làm sống lại gần đây đối với những ý tưởng truyền thống, thì họ là “hiền tài”, là “nguyên khí quốc gia”. Vậy những nạn “chảy máu chất xám” đã là điều nguy hại, mà nạn “lãng phí chất xám”, thậm chí còn khó nhận dạng hơn và khó khắc phục hơn, theo thiển ý, cũng cần nêu lên thành vấn đề lớn hiện nay.

Có thể nói, ở ta mới có những người trí thức lớn,- không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được “lớn” lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào trí thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến “tầm” trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định.


---

(1) Tham khảo, chẳng hạn:
-    Trần Đình Hượu Đến hiện đại từ truyền thống. Nxb Văn hóa và Thông tin 1996.
-    Le contact colonial franco – vietnamien le premier demi – siècle (1858 – 1911) Nxb Universitè de Provence (PUP), 1999.
-    Trịnh Văn Thảo Vietnam du confucianisme au communisme. Nxb Presse Universitaire Francaise (PUF) 1992.

(2) Tham khảo những tài liệu liên quan đến cuộc thảo luận về việc viết lịch sử tư tưởng Việt Nam. Viện Triết học, 1984.

(3) Trần Đình Hượu, Sđd

(4) Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 -1930) Nxb Văn học Hà Nội 1976.

(5) Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này.
 
Nguồn:  http://chuyencuachi.blogspot.com/2012/11/gioi-tri-thuc-tinh-hoa-trong-lich-su.html

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

Hiện tình nền giáo dục đại học Việt Nam qua kinh nghiệm thực tiễn và lăng kính cá nhân




Huỳnh Hữu Tuệ
Tóm tắt: Sau 10 năm hoạt động trực tiếp trong ngành giáo dục đại học (tất cả các cấp: đại học và sau đại học) với một số trọng trách từ giảng dạy, nghiên cứu đến quản lý, tác giả trình bày những kinh nghiệm cá nhân của mình và rút ra một số nhận xét chủ quan về tình hình hiện nay của hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam.
I. Giới thiệu bối cảnh
Tôi xuất thân từ Miền Nam, chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền giáo dục cổ điển của Pháp, từ bản lĩnh, đạo lý đến phương pháp lý luận cũng như kiến thức tổng hợp. Đi du học đầu những năm 60 của thế kỷ trước tại Canada; được đào tạo chính qui ngành điện tử viễn thông; và sau đó, tiếp tục nghiên cứu đến mức độ tiến sĩ khoa học (Sc.D.) trong lĩnh vực xử lý thông tin. Trong quá trình học tập và nghiên cứu, tôi chịu ảnh hưởng của hệ thống giáo dục Bắc Mỹ; nhất là trau dồi kiến thức và hoàn thiện phương pháp nghiên cứu thông qua rất nhiều cơ hội gặp gở để trao đổi và học hỏi các nhà khoa học bậc thầy của thế giới tại các xơmina và các hội nghị khoa học quốc tế quan trọng. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, tôi lại may mắn có được nhiều đồng nghiệp giúp đở để hoàn thiện mình như một nhà sư phạm và nhà tổ chức nghiên cứu. Do đó, tôi có một giấc mơ là làm thế nào để chuyển tải tất cả những kinh nghiệm mà cá nhân tôi đã tích lũy được cho thế hệ trẽ ở Việt Nam, như tôi đã từng được các bậc thầy trau dồi trong quá khứ.  
Từ suy nghĩ đó, ngay sau ngày Việt Nam thống nhất, tôi đã quyết định thường xuyên về Việt Nam, một mặt để tham gia vào quá trình giảng dạy và cộng tác với các đồng nghiệp thực hiện một số nghiên cứu chung, mặt khác để quan sát những điểm mạnh cũng như những điểm yếu trong hệ thống giáo dục của ta. Để hiểu rõ những đặc điểm của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, tôi đã đồng ý giảng dạy tại khá nhiều trường đại học từ Bắc chí Nam ở tất cả các cấp đại học và sau đại học, như Đại học khoa học tự nhiên Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Lê Quí Đôn Hà Nội, Đại học kinh tế Quốc dân, Đại học Huế, Đại học Bách khoa Sài Gòn.
Thông qua trao dổi và giảng dạy trên một khoảng thời gian khá dài, từ năm 1979 đến ngày hôm nay, tôi là một nhân chứng khách quan những biến động của nền giáo dục đại học tại Việt Nam. Nhưng kinh nghiêm quí báu nhất là lúc tôi chấp nhận lãnh đạo Đại học Quốc tế Bắc Hà từ năm 2007 đên cuối năm 2011. Với vai trò lãnh đạo một đại học ở Việt Nam, tôi mới có dịp thấy hết những bất cập của hệ thống đào tạo ở bậc đại học và số khía cạnh khác của xã hội.
II. Kinh nghiệm cá nhân
Từ 1979 đến 1984, tôi giảng dạy trong lĩnh vực “Xử lý dữ liệu ngẫu nhiên và áp dụng”. Trong giai đoạn đấy, tình hình kinh tế rất khó khăn, nạn thiếu đói khá phổ biến, nhưng sinh viên lại rất ham học. Đi học đúng giờ, ăn mặc giản dị nhưng tươm tất, ăn nói lịch sự và lễ độ. Cũng trong giai đoạn ấy, tôi chưa bao giờ đánh hỏng bất cứ sinh viên nào. Từ 1984 đến đầu những năm 1990, vì giới hạn thời gian, tôi chỉ có dịp trinh bày những seminar và chuyên đề về nhưng vấn đề chuyên môn cao và những kết quả nghiên cứu cá nhân của tôi. Đến giữa những năm 1990, tôi lại được mời giảng dạy một số lớp thạc sĩ và mãi đến đầu những năm 2000 tôi mới lại có dịp giảng một số môn học ở cấp đại học. Đồng thới, tôi cũng đã tìm cách đưa một số sinh viên Việt Nam Nam sang làm nghiên cứu sinh ở Canada và Mỹ. Tôi kể ra những chi tiết này để quí vị thấy rõ những điều tôi đề cập sau đây dựa trên quan sát cá nhân những tình huống thực tiển có thực.
Kể từ giữa những năm 1980, nhất là sau khi Việt Nam mở cửa, tình hình kinh tế càng ngày càng khó khăn. Và kể từ giai đoạn đó, ngay cả sau khi nền kinh tế phát triển mạnh, sinh viên tại Việt Nam càng ngày càng ít quan tâm đến học tập.
Phần lớn sinh viên ghi danh trong các chương trình thạc sĩ đều không đủ trình độ và ít quan tâm đến học tập.
Phần lớn các luận văn nghiên cứu khoa học ở cấp cử nhân chỉ là sao chép các tài liệu tải về từ mạng Internet. Các luận văn thạc sĩ cũng ở trong tình trạng như vậy, mà lại còn dịch sai so với tài liệu gốc. Phần lớn các luận án tiến sĩ có nội dung thấp, hoặc sao chép từ các công trình khác; một số luận án có chất lượng lại do giáo sư hướng dẫn viết giúp.
Tuy nhiên, may mắn là vẫn còn một số sinh viên học tập nghiêm túc, vẫn có một số luận án tiến sĩ ngang tầm với các đại học lớn nước ngoài và vẫn có một số công trình nghiên cứu có chất lượng được thực hiện tại Việt Nam.
Tuy không nhiều nhưng   đây chính là điểm sáng về sức mạnh trí tuệ Việt Nam, giúp ta hy vọng một ngày nào đó, hệ thống giáo dục đại học sẽ được vực dậy để phát triển nhằm bắt kịp các nước láng giềng và hơn thế nữa là bắt kịp các nước phát triển.
Tình hình này khác hẳn những gì tôi biết được về hệ thống giáo dục đại học của ta trước đây, là một nền giáo dục thật sự có chất lượng, tuy chưa cao nhưng rất nghiêm túc. Ngày hôm nay, nền giáo dục của chúng ta đã đánh mất chất lượng cũng như bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm.
Cái gì đã làm nền giáo dục đại học Việt Nam thay đổi nhanh chóng như vậy? Tôi xin đưa ra một số ý kiến, chưa hẳn là chính xác hoàn toàn, nhưng nếu có điều kiện đề nghiên cứu, tôi thấy chắc cũng không xa thực tế là bao nhiêu
“Một hệ thống giáo dục là tấm gương phản chiếu thực tế của xã hội đó”.
Như thế, nếu xã hội suy thoái, thì hệ thống giáo dục cũng suy thoái theo; nói một cách khác; hệ thống giáo dục là hệ quả của cơ chế tổ chức xã hội và tình hình hiện tại của xã hội đó. Từ hơn 10 năm qua, năm nào chúng ta cũng tổ chức nhiều hội thảo về tình hình giáo dục và nhất là tình hình của hệ thông giáo dục cấp đại học. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một đánh giá thực sự về những nguyên nhân gây ra tình hình không mấy tốt này.
Ta cứ tìm mục giáo dục trong bất cứ tờ báo nào, cũng thấy nhan nhản những cái tựa lố bịch, thể hiện trình độ nhận thức méo mó về giáo dục, nhưng đắng cay thay, chúng cũng chứa đựng thực tế của nền giáo dục Việt Nam. Tôi xin dẫn sau đây một số ví dụ nhỏ để minh họa cho những suy nghĩ của tôi.
Báo Pháp Luật Việt Nam, cơ quan của Bộ Tư pháp, ngày 04/09/2012 đã chạy một cái tít đầy khinh mạn “Khi bà lao công quan trọng hơn ông tiến sĩ”. Thật ra bài báo này muốn đã phá tình hình xấu xa của một số cơ quan nghiên cứu, trong đó ông giám đôc lợi dụng khả năng nghiên cứu của các thành viên để kiếm tư lợi cho mình; nếu có ai đó không để ông lợi dụng, thì ông giám đốc cay cú trả đủa ngay:
“Ở cơ quan ông T. có một bà lao công già rất nhiều lời. Cứ thành lệ, bốn giờ chiều là bà xua mọi người đi về để tắt đèn, đóng cửa, vệ sinh hành lang. Nhưng ông T. thường xuyên ở lại quá giờ đó khi là để tìm kiếm thêm tài liệu trên mạng, khi là để dịch nốt mấy trang nghiên cứu còn đang dở. Nhưng bà lao công đã đứng oang oang ở cửa: “Này anh kia, anh điếc hay mù mà không biết mấy giờ rồi? Về mau cho tôi còn đóng cửa, chứ không tí nữa giày anh làm bẩn hành lang tôi mới lau thì chết với tôi”. Nhịn một lần, hai lần nhưng đến lần thứ ba thì ông T. đem câu chuyện này ra trong cuộc họp công đoàn. Nào ngờ lãnh đạo của ông thản nhiên giải thích: “Bà ấy già rồi chấp gì, với lại công việc bà ấy cũng quan trọng ấy chứ, trực tiếp làm ra sản phẩm chứ đâu… nghiên cứu vẩn vơ(!)”.
Sự thực này cho thấy xã hội Việt Nam vẫn chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học. Và xa hơn một mức nữa là trí tuệ chưa được coi trọng đúng mức trong cơ chế hiện nay.
Báo Dân Trí, ngày 14/09/2012 đã chạy một cái tít đầy kịch tính “Học sinh bị lưu ban vì không đi học thêm?”. Bài báo này kể chuyện tại một làng quê nghèo ở Thanh Hóa, ban giám hiệu một trường tiểu học đã tuyên bố nếu học sinh không đi học thêm vào mùa hè thì phải ở lại lớp.
Sự thực này cho thấy, ngân sách dành cho giáo dục chưa đủ để bảo đãm một cuộc sống tươm tất cho các nhà giáo. Họ đành phải phá bỏ cương thường để tìm ra con đường sống cho mình. Và đây là lý do tại sao đạo đức càng ngày càng bị thui chột trong xã hội ta.
Báo Người Lao Động, ngày 7/09/2012 đã chạy một cái tít rất dễ gây hiểu nhầm “Công nghệ cao, nhân lực thấp?”. Bài báo khởi đầu với một cái ý rõ ràng “Hơn 70% là lao động phổ thông khiến nguồn nhân lực Khu Công nghệ Cao TPHCM khó đáp ứng cho sự phát triển”.
Phải hiểu thực tiễn này như thế nào? Lao động phổ thông là lao động không có tay nghề, không được đào tạo chính qui. Như thế loại lao động này chỉ thích hợp với các công nghê đơn giản như dệt may, dày dép, v.v…
Trong lúc đó, các công ty công nghệ cao lúc tuyển nhân viên,về thực chất, họ chỉ đánh giá bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm của nhân viên; nếu đáp ứng được các tiêu chí này thì sẽ được công ty đào tạo cho dây chuyền sản xuất công nghệ cao của công ty. Nếu các công ty công nghệ cao than phiền là thiếu nhân lực, không phải vì người thợ không có tay nghề, mà chính ví người thợ không có bản lĩnh và thiếu tinh thần trách nhiệm. Đây là những yếu tố quan trọng mà một nền giáo dục nghiêm túc phải bảo đảm là rèn luyện sinh viên cho đến nơi đến chốn.
Tôi xin kể một câu chuyện vừa buồn cười, vừa cay đắng: lúc tôi đang làm Hiệu trưởng Đại học Quốc tế Bắc Hà. Bộ phận hành chính của trường yêu cầu một công ty đến lắp đặt một hệ thống theo dõi các chuyển động trong văn phòng của tôi. Một buổi sáng nọ, có hai thanh niên xin vào phòng làm việc của tôi để lắp đặt hệ thống. Thật ra không có gì phức tạp, chỉ là một camera hồng ngoại. Chỉ cần cắm nó vào cái đế đã được gắn chặt vào vách tường trước đó. Điều này có nghĩa là bất cứ ai cũng có thể cắm camera vào cái đế này. Bỗng dưng tôi nhìn ra một người là sinh viên cũ của tôi tại một đại học có tiếng tăm ở Hà Nội. Tôi hết sức ngạc nhiên hỏi cậu ta “Anh là kỹ sư sao công ty lại giao cho anh làm cái việc cỏn con này?”. “Việc này không phải một mình em làm đâu. Theo lệnh của lãnh đạo công ty, em cùng đến đây với một anh bạn, là cựu sinh viên của một đại học tiếng tăm khác ở Hà Nội; hai anh em được giao trách nhiệm lắp đặt này”.
Một công ty giao trách nhiệm cho 2 kỹ sư tốt nghiệp các đại học hàng đầu của Việt Nam, đi gắng một cái camera hồng ngoại vào một cái chân đế! Câu chuyện này xảy ra năm 2008. Điều này cho thấy tình thình thực tiển của nền công nghiệp Việt Nam và các công ty công nghệ đang thật sự có trình độ như thế nào.
Trên trang Vietnamnet, ngày 3 tháng 7 năm 2012, có một bài báo mang tựa đề “Hơn 9000 giáo sư sao không có bằng sáng chế?”; nội dung bài báo muốn đề cập đến vấn đề nghiên cứu khoa học ở Việt Nam; các tác giả dựa trên các dữ liệu thống kê để kết luận tính yếu kém trong nghiên cứu khoa học. Các tác giả đã nêu rõ ý kiến sau: “Cũng cần nói thêm rằng ViệtNam chưa có một cơ chế để hỗ trợ và phụ trách đăng kí sáng chế. Theo chúng tôi biết, Việt Nam còn thiếu những luật sư có kinh nghiệm trong việc đăng kí bằng sáng chế và sở hữu trí tuệ. Nhà khoa học thì chưa chắc có khả năng tài chính để tự đăng kí, mà dù cho có khả năng tài chính thì không có luật sư cũng khó làm được. Trong khi đó, các đại học còn chưa quan tâm đến nghiên cứu khoa học, thì họ đâu có thì giờ quan tâm đến việc đăng kí bằng sáng chế ».
III. Một số nhận xét
Từ kinh nghiệm cá nhân và với những ví đơn giản vừa được nêu ra, ta thấy rõ một số đặc trưng của nền giáo dục đại học hiện nay ở nước ta.
Tiền nào của ấy : đây không những là ý kiến của bà Nguyễn Thị Kim Tiến (hiện nay là Bộ trưởng Bộ Y tế) tại Hội nghị toàn quốc về chất lượng giáo dục ĐH tổ chức ngày 5/1/2008 tại Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, khi nói về mối quan hệ giữa đầu tư và chất lượng hiện nay, mà còn là ý kiến của đông đảo quan sát viên trong và ngoài nước. Đặc biệt là đối với các đại học nghiên cứu, chất lượng đào tạo và nghiên cứu phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề ngân sách. Chỉ cần xem ví dụ 2 và 4 là ta thấy rõ mối quan hệ này. Mặt khác, ngân sách giáo dục của Việt Nam đã vượt 20% ngân sách quốc gia. Như thế, ngân sách dành cho giáo dục khó có thể nâng cao vượt bực trong vài năm tới như mong muốn, mà phải cần thời gian và một chiến lược thích hợp để thay đổi tình hình suy thoái hiện nay
Phương pháp giảng dạy : hiện nay, trong hầu hết các lớp học ở tất cả các cấp, người thầy lên lớp chép bài lên bảng; học sinh sinh viên chép lại bài của thầy giáo vào vở của mình. Hầu như giữa thầy và trò không có mối liên hệ về trí tuệ, không trao đổi, không thảo luận; tất cả đều thụ động cả thầy lẫn trò. Tôi từng là nhân chứng một sự kiện thật khó quên; người thầy mở máy casette phát bài cho sinh viên chép tại một lớp học kỹ sư. Thật không thể tin nổi! Lớp học không có sinh khí, làm cho người ta dễ chán nản đối với một môi trường đào tạo như thế. Tình hình này làm thui chột tư duy và trí tuệ của con người.
Phương pháp học tập : sinh viên vào lớp nghe giảng một cách thụ động; không động não để có thể tổng hợp nhanh chóng các kiến thức mới. Sinh viên không dám trao đổi thảo luận với thầy giáo để làm rõ những vấn đề vẫn còn khúc mắc. Sinh viên học chỉ nhằm làm thế nào để thi đổ thành công môn học, mà không thèm để ý đến những hiệu quả, hậu quả của cách học của mình. Do đó, vấn đề sao chép tài liệu, sao chép bài của nhau được xem là bình thường, dẫn đến tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tự trọng và thiếu cả tinh thần tôn trọng luật pháp.  
Tất cả những gì tôi quan sát được dẫn đến những mô tả về đặc trưng của nền giáo dục của ta hiện nay thật ra không có gì mới. Tuy nhiên, ta thấy ngay những điều cần điều chỉnh để có thể có một nền giáo dục tốt hơn. Tôi xin trích lại đây ba nhiệm vụ chính của một đại học theo quan điểm của Marcus Storch, Chủ tịch Hội đồng Quỹ Nobel: Là ký ức của xã hội, Là mũi nhọn của xã hội, và Là tấm gương phê phán của xã hội. Cả ba trách nhiệm này đòi hỏi trí tuệ phải là yếu tố hàng đầu
Muốn đạt được các mục tiêu đó, môi trường đào tạo đại học phải được xây dựng thế nào để sinh viên được phát triển tối đa tư duy tự do và tư duy phản biện.
Có tư duy tự do mới có khả năng đóng vai trò ký ức của xã hội; có tư duy phản biện mới có thể là tấm gương phê phán của x ãhội. Có tư duy tự do và tư duy phản biện mới có cơ hội để phát triển tư duy sáng tạo nhằm làm mũi nhọn của xã hội.
Trong xã hội ta vẫn còn một số sinh viên học tập nghiêm túc, vẫn có một số luận án tiến sĩ ngang tầm với các đại học lớn nước ngoài và vẫn có một số công trình nghiên cứu có chất lượng được thực hiện tại Việt Nam. Tuy không nhiều nhưng đây chính là điểm sáng khẳng định rõ ràng tiềm năng trí tuệ của xã hội chúng ta.  
Như thế, để nâng cao chất lượng đào tạo đại học và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, điều kiện tiên quyết quan trọng nhất chúng ta đã có sẵn; đấy là tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam. Để thật sự phát huy tiềm năng này, những điều cần thực hiện ngay là:
Bảo đảm cơ sở vật chất đầy đủ để hoạt động giảng dạy và nghiên cứu thật sự có hiệu quả; bảo đảm điều kiện tài chánh thích hợp để giảng viên và nghiên cứu viên có cơ hội tập trung làm việc, nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu.  
Xây dựng một môi trường đào tạo thế nào để sinh viên có đủ điều kiện phát huy tư duy tự do và tư duy phản biện, giúp sinh viên xây dựng bản lĩnh làm người và tinh thần trách nhiêm đối với xã hội; xây dựng lòng tự tin của cá nhân trước những vấn đề phức tạp cần giải quyết.
Trong tình hình hiện nay, thực hiện các điểm đề ra là một vấn đề tuy không nan giải nhưng đầy dẫy khó khăn. Vì thế, ta thấy 10 năm trước mắt, khó có thể nâng cao chất lượng của hệ thống một cách rộng rãi. Về đường trường, nếu ta có một chiến lược quyết liệt và thích hợp, mà nếu toàn bộ hệ thống thực hiện nghiêm túc nhằm đạt mục tiêu chung, chúng ta có quyền hy vọng một tương lai tốt đẹp cho nền giáo dục của nước nhà./.

 Nguồn: nguyenvantuan.net

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

TÍN NGƯỠNG THIÊN HẬU TẠI NAM BỘ VIỆT NAM

TS. Nguyễn Ngọc Thơ
Khoa Văn hóa học
Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.HCM

Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu (Bà Ma Tổ, Bà Mã Châu) gốc Hoa Nam đã theo bước di dân người Hoa đến Nam Bộ Việt Nam từ các thế kỷ 17- 19, đã trở thành một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu khá phổ biến tại đồng bằng Nam Bộ. Tục thờ này cùng với các hoạt động văn hóa – nghệ thuật và các khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với nó đã sớm trở thành một “kho tàng” văn hóa dân gian, ở đó người ta gìn giữ linh hồn của truyền thống, đồng thời cũng là một kênh giáo dục đạo đức, lối sống hiệu quả và sâu sắc của người Hoa nói riêng, của các tộc người Nam Bộ nói chung. Trong mối tương quan với văn hóa dân gian các tộc người Việt, Khmer và Chăm trong vùng, tín ngưỡng Thiên Hậu đã góp phần quan trọng tạo nét đặc trưng mang bản sắc người Hoa – một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, ngày càng có giá trị lớn lao trong quá trình dung hợp đa văn hóa để tạo nên diện mạo văn hóa Nam Bộ Việt Nam trong suốt 300 năm qua.
1. Nguồn gốc, quá trình phát triển và truyền bá đến Việt Nam
Tín ngưỡng Ma Tổ - Thiên Hậu (Mazu – Tianhou) hình thành tại đảo Mi Châu, Phổ Điền, Phúc Kiến (Meizhou, Putian, Fujian) vào thời Tống ở Trung Quốc. Bà tên thật là Lâm Mặc (林默 Lin Mo) thường được gọi là Lâm Mặc Nương (林默娘 Lin Moniang), sinh ngày 23 tháng 3 năm 960, là một nữ shaman nổi tiếng (Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp 2006: 8-10). Bà vốn là người Đản Dân (Tangka, còn gọi là Long nhân (龙人người Rồng), Giao nhân (鲛人) – một nhánh hậu duệ người Mân Việt (闽越Minyue) cổ chuyên sống bằng nghề cá và trao đổi hàng hóa trên sông, biển.
Thư tịch Trung Quốc Đại Thanh hội điển sự lệ, Bồ Tát ngoại truyện, các sách địa phương chí v.v. có ghi chép: bà Lâm Mặc rất thông minh, tháo vát, giúp dân vượt hoạn nạn và dạy dân cách sống văn minh, thoát bệnh tật. Một ngày nọ bà ngủ trưa, thấy cha và anh trai gặp bão biển, bà dùng năng lực đặc biệt cứu được anh trai. Trong khi đang cố gắng cứu cha thì bà bị mẹ lay dậy nên không cứu được cha. Về sau bà thường dùng năng lực thần thánh của mình để cứu giúp dân, bao gồm dạy dân dùng rau rong biển cứu đói, cầu mưa, treo chiếu làm buồm, hàng phục hai thần Thuận Phong Nhĩ và Lí Thiên Nhãn, giải trừ thủy tai – quái phong, thu phục nhị quái, chữa bệnh cứu dân, nhận bùa dưới giếng, thăng thiên ở đảo Mi Châu v.v. (Phan Thị Hoa Lý 2010). Bà qua đời đời ngày 9 tháng 9 năm 987 ở tuổi 28. Người đời tin rằng bà là con gái Ngọc hoàng, ban đầu dân ở đảo Mi Châu dựng miếu thờ bà, gọi là miếu Ma Tổ. Tương truyền bà thường hiển linh cứu giúp người đi biển nên dân gian ví bà là vị hải thần([1]) (Chu Thiên Thuận 1990: 86; Lý Lộ Lộ 1995: 19-23 ; La Xuân Vinh 2006: 1-4)).
Đến năm 1086, nhà Nam Tống chính thức cổ xúy cho tín ngưỡng này, nhờ vậy phạm vi ảnh hưởng càng ngày càng mở rộng. Đến thời Nguyên, Ma Tổ được phong làm Thiên phi (天妃, năm 1354), từ đó tín ngưỡng Ma Tổ phát triển lên vùng hạ lưu Dương Tử, bán đảo Sơn Đông. Từ thời Minh trở về sau do nhu cầu giao thương hàng hải với khu vực Đông Nam Á, tín ngưỡng này truyền bá xuống Lĩnh Nam, Đài Loan và Đông Nam Á. Đời Thanh Khang Hy  1682 , bà được gia phong Thiên Hậu Thánh mẫu. Tên gọi đặc khu hành chính Macau được cho là bắt nguồn từ danh từ “Ma Các” (妈阁 = miếu Ma Tổ). Cuốn Ma Tổ Cung Tập Thành (妈祖宫集成) ghi chép tại Trung Quốc có hơn 450 huyện, thị, thành phố có miếu Thiên hậu. Người Mân Nam (nam Phúc Kiến) và Hải Nam thích gọi bà là Đại Mẫu hoặc Ma Tổ (妈祖Mazu), người Quảng Đông gọi là Đức Bà hay Thiên Hậu.
Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Trung Quốc trải qua gần 1000 năm lịch sử, tồn tại trong mối dung hòa với Đạo giáo, Phật giáo và quan hệ thỏa hiệp với Nho giáo, góp phần tạo nên diện mạo văn hóa Hoa Nam rất đặc sắc (La Xuân Vinh 2006). Song xét về bản chất, tục thờ này cơ bản vẫn là tín ngưỡng dân gian, mang đầu đủ các đặc trưng truyền thống của dòng văn hóa dân gian phương Nam gần gũi, giản dị. Ở một phương diện nào đó, người Nam Trung Hoa dùng tín ngưỡng Thiên Hậu cùng với các tín ngưỡng thờ Mẫu khác([2]) làm đối trọng với kiểu văn hóa quan phương “nam tôn nữ ti” phương Bắc (Nguyễn Ngọc Thơ 2011). Điều đó có nghĩa là, tín ngưỡng Thiên Hậu thấm đẫm các đặc trưng văn hóa phương Nam, đặc biệt và văn hóa Mân Nam – nơi sản sinh ra nó.
Người Trung Quốc và Đài Loan thờ Thiên Hậu, coi bà là thủy-hải thần, là nữ thần hộ mệnh; nữ thần sinh sôi, nữ thần khai sơn v.v., thi thoảng đồng nhất với Quan âm trong Phật giáo, Tây vương Thánh mẫu trong Đạo giáo, với Lâm Thủy phu nhân, Kim Hoa phu nhân trong tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Hoa Nam.
Tín ngưỡng Thiên Hậu du nhập vào Nam Bộ Việt Nam theo dòng di dân người Hoa vào thời Minh – Thanh, đặc biệt là cuối Minh – đầu Thanh. Đợt 1 vào khoảng thập niên 1660, có khoảng 7000 người Hoa Nam do Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên (người Quảng Đông) dẫn đầu vào định cư tại Đồng Nai, Đề Ngạn (Chợ Lớn) và Mỹ Tho. Đợt thứ 2 do Mạc Cửu dẫn đầu khai phá đất Hà Tiên, sau phát triển dần xuống bán đảo Cà Mau. Từ cuối thể kỷ 17 cho đến đầu thế kỷ 20, nhiều dòng di dân người Hoa người tiếp tục đến vùng Nam Bộ, đặc biệt vào cuối thế kỷ 19, Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, các hiệp ước Pháp – Thanh năm 1885 và 1886 đã mở ra nhiều cơ hội để người Hoa di dân đến Việt Nam. Từ đó trở đi, đồng bào người Hoa đã chung sống chan hòa cùng các cộng đồng bản địa gồm Việt, Khmer và Chăm, cùng tạo dựng văn hóa Nam Bộ. Hiện tại toàn Nam Bộ có khoảng 800.000 người dân tộc Hoa (2009), phân thành 5 nhóm hệ dân Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (còn gọi là Hẹ). Người Quảng Đông tập trung chủ yếu ở Tp. Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ và một số thành phố, thị xã lớn ở Tây Nam Bộ; người Triều Châu cư trú nhiều nhất ở bán đảo Cà Mau (Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau); người Phúc Kiến và người Hải Nam sinh sống rải rác khắp vùng miền; người Khách Gia định cư rải rác ở Biên Hòa và khu vực hai bên sông Tiền, sông Hậu, nhiều nhất là Long Xuyên. Ban đầu cả 5 hệ dân cùng phối hợp nhau dựng các Thất phủ cổ miếu (Cù lao Phố, Tp. Hồ Chí Minh, Mỹ Tho, Vĩnh Long v.v.) chủ yếu thờ Thiên Hậu, Quan Công, nhưng sau từng nhóm tách riêng tự xây cất các miếu cho riêng mình.
Trên đường đi biển, họ thường cầu nguyện Bà hiển linh hỗ trợ. Khi định cư được bình an tại vùng Nam Bộ, di dân lập miếu trang trọng thờ Bà, ngưỡng vọng và thờ tự Bà với tấm lòng biết ơn đã giúp đỡ họ được“thuận buồm xuôi gió”. Theo dòng di dân đến khắp nơi ở Nam Bộ, miếu Thiên Hậu cũng được dựng lên. Về sau, người Hoa còn thờ Bà thêm chức năng bảo an, ban phát phúc lộc, thịnh vượng, đặc biệt là hộ mệnh cho trẻ sơ sinh (Trần Hồng Liên 2005). Chính vì thế rải rác ở các thị tứ, thị trấn, thành phố tại vùng đất Nam Bộ đều có miếu Thiên Hậu với nhiều tên gọi Chùa Bà, Chùa Thiên Hậu, Thiên Hậu Cung hay miếu Thiên Hậu. Vùng Bạc Liêu, Cà Mau còn gọi Thiên Hậu là Mã Châu (妈祖Mazu), do vậy miếu Thiên Hậu còn gọi là Chùa Bà Mã Châu 妈祖婆寺(tư liệu điền dã 2011). Vùng Sóc Trăng cũng gọi là Ma Tổ, phong cách tác tượng thờ mang nét ảnh hưởng từ Macau và Đài Loan, Ma Tổ gương mặt đen với tay cầm lệnh bài đưa ngang vai (Trần Hồng Liên 2006).
2.Hiện trạng tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam
Nam Bộ là một trong sáu vùng văn hóa của cả nước (Tây Bắc, Việt Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, ven biển Trung Bộ, Trường Sơn-Tây Nguyên và Nam Bộ), có thể chia tiếp thành hai tiểu vùng gồm vùng Đông Nam Bộ (Tp. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu) với kiểu loại hình kinh tế - văn hóa lấy rừng cao su, cây công nghiệp và lối sống đô thị - thương mại làm trọng tâm; và tiểu vùng Tây Nam Bộ (gồm 13 tỉnh thành đồng bằng Sông Cửu Long là Tp. Cần Thơ Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau) với các đặc trưng lối sống sông nước, lấy kinh tế nông nghiệp lúa nước và nghề nuôi trồng thủy hải sản làm chủ đạo.
Nam Bộ Việt Nam là nơi tập trung đồng bào người Hoa đông đảo nhất (chiếm gần 90% tổng số người Hoa), và do vậy đây là nơi có số miếu Thiên Hậu đông đúc nhất cả nước. Hầu hết các miếu tại đây được xây từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, đúng vào các cao trào di cư. Dưới đây là bảng tổng kết số các miếu Thiên Hậu tại các địa phương Nam Bộ([3]):
STT
Tỉnh/thành phố
Số miếu
Tên gọi/Địa chỉ


1


Bình Dương


5
Miếu Thiên Hậu Phú Cường (TX. Thủ Dầu Một),
Miếu Thiên Hậu tại P. Lái Thiêu (Thuận An),
Miếu Thiên Hậu tại Búng (Thuận An),
Miếu Thiên Hậu tại Bưng Cầu,
Miếu Thiên Hậu tại thị trấn Dầu Tiếng
2
Bà Rịa – Vũng Tàu
2
Chùa Bà Bà Rịa,
Miếu Bà Ngũ Bang Tp. Vũng Tàu
3
Đồng Nai
2
Miếu Cây Quăn (Bửu Long, Biên Hòa),
Miếu Thiên Hậu Hòa Bình (Hòa Bình, Biên Hòa)


4


Tây Ninh


6
Miếu Thiên Hậu (Trần Hưng Đạo, TX. Tây Ninh),
Minh Nghĩa hội quán,
Thất Phủ Hòa An Hậu Minh hương hội,
Miếu Gia Gòn (Thanh Điền, Châu Thành),
Miếu Thanh An (Thanh Phước, Gò Dầu),
Miếu Nhị Phủ (Trảng Bàng).
5
Bình Phước
0







6






Tp. Hồ Chí Minh






13
Miếu Tuệ Thành (710 Nguyễn Trãi, Q.5),
Ôn Lăng (12 Lão Tử, Quận 5),
Hà Chương (802 Nguyễn Trãi Quận 5),
Quỳnh Phủ (276 Trần Hưng Đạo Quận 5),
Tam Sơn hội quán (116 Triệu Quang Phục Quận 5),
Quần Tân hội quán (2 Lý Thường Kiệt, Gò Vấp),
Miếu Thiên Hậu hội quán Quảng Triệu (132 Nguyễn T. Minh Khai Q.3),
Miếu Xóm Chiếu (Q. 4),
Hội quán Quảng Triệu (122 Bến Chương Dương cũ, nay là Đại lộ Đông Tây, Q. 1),
miếu Thiên Hậu Chợ Quán,
miếu Thiên Hậu số 21 Lê Trực (Bình Thạnh),
miếu Thiên Hậu Cần Thạnh (Cần Giờ),
chùa Bà Thiên Hậu Trung Đông (Thới Tam Thôn, Hóc Môn)
7
Long An
0


8

Tiền Giang

3
Miếu Thiên Hậu Mỹ Tho
Miếu Thiên Hậu Cai Lậy
Miếu Thiên Hậu Cái Bè (hiện bỏ hoang)
9
Đồng Tháp
2
miếu Thiên Hậu Phúc Kiến (Sa Đéc)
miếu Thiên Hậu Quảng Đông (Sa Đéc)
10
Bến Tre

miếu Thiên Hậu Giồng Trôm,
miếu Thiên Hậu Ba Tri,
miếu Thiên Hậu Tp. Bến Tre
11
Vĩnh Long
2
Thất phủ cổ miếu Vĩnh Long
Miếu Thiên Hậu Ba Càng

12

Trà Vinh

3
Phước Minh cung (Tp. Trà Vinh)
Miếu Thiên Hậu Phong Phú (Cầu Kè),
Miếu Thiên Hậu Hiệp Hòa (Cầu Ngang).
13
An Giang
2
miếu Thiên Hậu Khách Gia
miếu Thiên Hậu Vĩnh Mỹ (Châu Đốc)

14

Kiên Giang

3
Miếu Thiên Hậu Rạch Giá
Thiên Hậu Cung Rạch Giá
Miếu Thiên Hậu Hà Tiên

15

Cần Thơ

3
Hội quán Quảng Triệu tại Ninh Kiều,
Miếu Thiên Hậu Cái Răng,
Miếu Thiên Hậu Ô Môn
16
Hậu Giang
0
chưa thống kê



17



Sóc Trăng



5
Miếu Thiên Hậu Tp. Sóc Trăng,
Miếu Thiên Hậu TX. Vĩnh Châu,
Hải Phước An Tự (Vĩnh Châu),
Miếu Thiên Hậu Mỹ Xuyên,
Chùa Bà An Hiệp (Châu Thành)

18

Bạc Liêu

3
Vĩnh Triều Minh hội quán (Tp. Bạc Liêu),
Miếu Thiên Hậu Vĩnh Trạch (Tp. Bạc Liêu),
Miếu Thiên Hậu Gành Hào (Gành Hào)



19



Cà Mau



6
Miếu Thiên Hậu Triều Châu (P.2, Tp. Cà Mau),
Miếu Thiên Hậu Phúc Lãnh (Tp. Cà Mau),
Tam Hưng cổ miếu (ngoại vi Tp. Cà Mau),
Miếu Thiên Hậu Sông Đốc (Trần Văn Thời),
Miếu Miếu Thiên Hậu xã Phú Hưng (Cái Nước)
Miếu Thiên Hậu thị trấn Thới Bình (Thới Bình)
Tổng cộng
  60
Có thể thấy có hai khu vực tập trung miếu Thiên Hậu đông đảo nhất, đó là vùng đô thị Đông Nam Bộ (Tp. Hồ Chí Minh – Thủ Dầu Một – Biên Hoa) của nhóm người Hoa gốc Quảng Đông; và hai là vùng bán đảo Cà Mau do nhóm người Hoa gốc Triều Châu và Phúc Kiến xây dựng.
Đối với đồng bào người Hoa, miếu Thiên Hậu được coi là “ngôi nhà chung”, do vậy miếu thường được xây dựng bề thế, trang trí công phu. Nói về các hội quán Hà Chương, Ôn Lăng của người Phúc Kiến, nhà thơ Nguyễn Liêm Phong trong Nam Kỳ phong tục nhân vật diễn ca (1909) đề thơ:
Hà Chương Hội quán ai bì
Ôn Lăng thất phủ hạng nhì, hạng ba.
Các chùa còn lắm xa hoa,
Thờ ông Phước Đức, thờ bà Thai Sanh.
Thiên hậu thánh mẫu rất linh,
Quan công thánh đế lịch xinh tượng hình...
Tại hầu hết các miếu Thiên Hậu ngoài đối tượng được thờ ở chính điện thì người ta còn phối thờ nhiều vị thần khác. Chẳng hạn tại miếu Tuệ Thành (710 Nguyễn Trãi, Q.5 Tp. Hồ Chí Minh) ngoài chính điện thờ 3 tượng Thiên Hậu([4]), hai bên tả hữu thờ Kim Hoa phu nhân([5]) và Long mẫu nương nương([6]). Miếu Thiên Hậu tại đường Trần Hưng Đạo, TX. Tây Ninh cũng phối thờ như vậy. Miếu Thiên Hậu Bình Dương thờ Thiên Hậu, Ngũ hành nương nương và Phúc Đức chính thần. Miếu Thiên Hậu tại Tp. Vĩnh Long thì thờ Thiên Hậu và Kim Hoa phu nhân. Ở miếu Ông Lăng (12 Lão Tử, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh), ngoài thờ Thiên Hậu Thánh mẫu còn thờ Phước Đức chính thần, bà chúa Thai sanh, Ngọc hoàng thượng đế, phật Quan âm (Guanyin 观音), Bao Công (Bao Gong 包公), Thành hoàng (Cheng Huang shen城隍神). Tại Hội quán Quảng Triệu (122 Bến Chương Dương) ngoài Thiên Hậu còn thờ thêm 22 đối tượng khác([7]). Ngoài ra, ở một số miếu thờ Quan Công hay Bắc Đế cũng có phối thờ bà Thiên Hậu, chẳng hạn tại miếu Ông Bắc (thờ Bắc Đế) và miếu Quan Công ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (tư liệu thực tế 2012).
Tại tiểu vùng Tây Nam Bộ có hiện tượng người dân (kể cả người Hoa và người Việt) thờ Thiên Hậu ở gia đình, chẳng hạn tại thị xã Vĩnh Châu (Sóc Trăng), một số cư dân địa phương phối thờ Thiên Hậu Thánh mẫu cùng với tổ tiên gia đình. Ngoài ra, trong một số cơ sở tín ngưỡng thờ các vị thần khác nhưng vẫn phối thờ Thiên Hậu, chẳng hạn tại Hội quán Nghĩa An (đường Nguyễn Trãi, F. 11, Q. 5, Tp. Hồ Chí Minh) ngoài thờ chính là Quan Công còn thờ Thiên Hậu.
Hầu hết các miếu Thiên Hậu đều mở hội vía bà trong tháng ba, lễ vía chính thường diễn ra trong hai ngày 22 và 23 tháng ba âm lịch. Ngày 22 người ta tổ chức lễ mộc dục (沐浴 Bathing) để tắm tượng, thay xiêm y mới và chuẩn bị các công tác cần thiết cho đại lễ ngày hôm sau. Ngày 23 tháng ba, mọi người tổ chức lễ rước bà, thỉnh tượng vào kiệu và cung nghinh kiệu đi quanh phố phường. Người giàu mua heo quay, bộ đồ lễ, đồ nữa trang bằng kim loại dâng cúng. Người nghèo hơn thì cúng gà và trái cây. Ngày 23 tháng ba thường có hát Triều 潮戏, hát Quảng 粤戏hay biểu diễn Côn Khúc 昆曲. Riêng miếu Tuệ Thành (Tp. Hồ Chí Minh) ngày 28 tháng chạp hằng năm có thêm lễ khai ấn và phát ấn cho dân để cầu mong “quốc thái dân an 国泰民安”, “như ý cát tường 吉祥如意”, “hợp gia bình an 合家平安” v.v. (Trần Hồng Liên 2005). Người Hoa và người Việt có tục “vay tiền” bà Thiên Hậu vào ngày rằm tháng Giêng (tết Nguyên tiêu ở người Hoa, tết Thượng nguyên ở người Việt) và “trả tiền vay” vào các tháng cuối năm.
Trong lễ hội người Hoa trước đây tổ chức rất nhiều nghi thức, trong đó không thể thiếu nghi thức cung nghinh Thánh mẫu dạo phố phường([8]). Đa số các miếu tổ chức múa lân – múa rồng cung nghênh. Đặc biệt tại miếu Thiên Hậu Bình Dương, người Hoa Phúc Kiến có tổ chức múa hẩu. Đây là nét văn hóa độc đáo duy chỉ có ở Bình Dương, trong khi đó ở Hoa Nam người ta không còn múa hẩu nữa. Đầu con hẩu là một chiếc mặt nạ tròn rất hung tợn, được vẽ nhiều màu sắc, quanh đầu râu ria xồm xàm, thân phủ một tấm vải màu vàng rực, đuôi thường làm bằng đuôi trâu hoặc bò. Múa hẩu khác với múa lân, hay múa rồng, không được trèo leo hay nhún nhảy vui nhộn, mà phải nghiêm trang, đầu rướn lên cao, xoay mặt qua lại, lúc thì co lượn, trườn dài, lăn tròn xuống đất. Khi tổ chức rước Thiên Hậu du xuân, múa hẩu đi trước đê dọn đường (Lý Phát, Đỗ Tiến: www.sugia.vn).
 
Múa hẩu ở Bình Dương
Xét theo chiều dài lịch sử, tín ngưỡng Thiên Hậu có mặt tại Nam Bộ Việt Nam đã 300 năm nay, song chỉ khoảng hai thập niên cuối thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 này thì mối quan hệ giao lưu văn hóa Hoa – Việt thể hiện qua tục thờ này mới phát triển đến đỉnh cao. Suốt thời Nguyễn, thời Pháp thuộc và thời chống Mỹ, tín ngưỡng Thiên Hậu tồn tại âm thầm trong cộng đồng người Hoa, tuy người Việt có tham gia các hoạt động cúng bái song không mang tính chất hệ thống. Kể từ sau khi đất nước cải cách mở cửa, nền kinh tế thị trường đã làm cuộc sống cư dân Nam Bộ đổi thay, tiến bộ thì người Việt tại đây bắt đầu tiếp nhận nhiều hơn và tham gia nhiều hơn vào các hoạt động tín ngưỡng thờ Thiên Hậu. Vào các dịp tết Xuân, Rằm tháng Giêng, Lễ vía bà tháng 3, Rằm tháng 7, Rằm tháng 10 v.v., rất nhiều người Việt theo nhiều tôn giáo khác nhau tham gia viếng Bà hay “vay tiền” Bà. Có thể nói, hiện rất khó có thể phân biệt tách bạch sắc thái Hoa và Việt qua các hoạt động lễ hội bởi sự dung hợp hài hòa sâu sắc giữa hai dòng văn hóa này. Qua bước đầu khảo cứu, chúng tôi cho rằng hiện tượng tham gia ngày càng sâu sắc hơn của cộng đồng người Việt trong tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có:
  1. (1)Truyền thống thờ nữ thần vốn rất phổ biến trong văn hóa Việt tạo tiền đề để người Việt dễ dàng tiếp nhận tục thờ Thiên Hậu khi phù hợp (giống như trường hợp tích hợp văn hoá Việt-Chăm-Khmer trong các tục thờ Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen) và Bà Chúa Xứ tại Nam Bộ);
  2. (2)Qua gần 300 năm tồn tại, người Việt thường chỉ nghĩ rằng Thiên Hậu là một vị phúc thần, vị thánh mẫu ban phát phúc lành, thịnh vượng, sung túc hơn là một vị hải thần[9]; và do vậy việc tiếp nhận tục thờ hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng đời sống văn hóa tâm linh;
  3. (3)Truyền thống đa thần của người Việt cùng với tính cách mở - thoáng của người Việt Nam Bộ đã giúp họ sẵn sàng đón nhận một vị nữ thần mới;
  4. (4)Một bộ phận người Hoa ở đô thị làm thương mại, dịch vụ trở nên giàu có, nhiều người Việt cho rằng Thiên Hậu Thánh mẫu đã ban phúc lành ấy, do vậy một bộ phận người Việt có xu hướng tiếp nhận phong cách văn hóa tín ngưỡng của người Hoa;
  5. (5)Sau chiến tranh, văn hóa người Hoa hội nhập sâu rộng hơn vào dòng văn hóa chủ lưu của người Việt tại Nam Bộ.
  6. (6)Có hiện tượng người Việt tiếp nhận Thiên Hậu qua lăng kính của Phật giáo, tức coi Thiên Hậu là/hoặc tương đương một vị Phật bà hay Bồ tát.
  7. 3.Đặc trưng văn hóa tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam
a. Nam Bộ là một vùng văn hóa đa tộc người, đa văn hóa chung sống chan hòa, giữa các tộc người có sự giao thoa văn hóa sâu rộng, tuy nhiên mỗi tộc người đều mang những nét đặc trưng mang tính bản sắc riêng biệt. Ngoài người Việt là chủ thể văn hóa chính thì người Khmer có thể kể đến hệ thống văn hóa, phong tục – tập quán xoay quanh Phật giáo Nam Tông (Theravada Buddhism), người Chăm với Islam và người Hoa với hệ thống tín ngưỡng thờ Thiên Hậu và Quan Công[10]. Ở một chừng mực định, đó là những sự lựa chọn văn hóa (cultural selection) có tính lịch sử của người Hoa.
Thật vậy, tín ngưỡng thờ Thiên Hậu là một trong những hạt nhân phản ánh bản sắc văn hóa Hoa tộc trong đại gia đình văn hóa Nam Bộ. Nhắc đến người Hoa, người ta nhắc đến Bà Thiên Hậu, ngược lại khi nhắc đến Bà Thiên Hậu người ta nói đến người Hoa. Trường hợp Quan Công thì khác biệt, bởi lẽ trong truyền thống văn hóa người Việt trong hơn một ngàn năm qua đã có tục thờ Quan Công, tục thờ này theo chân lưu dân người Việt vào đất Nam Bộ.
Cộng đồng người Hoa mượn tục thờ Thiên Hậu để thực hiện chức năng giáo dục truyền thống, định hướng cộng đồng mình về nhân cách, đạo đức sống cao đẹp. Thông qua tín ngưỡng này, người Hoa gìn giữ đặc trưng văn hóa tộc người mình, nhất là các yếu tố thuần phong mỵ tục của đồng bào người Hoa. Trong tục thờ này có thể thấy người ta tế lễ theo nghi thức Nho giáo, người tế lễ mặc trang phục chỉnh tề, có phân cao thấp tôn ti. Ngoài một số ít hình thức bản địa hóa thì hầu hết các bước tiến hành vẫn giữ nguyên sắc thái có từ Nam Trung Hoa. Thông qua các hoạt động tín ngưỡng, người Hoa còn lưu giữ nhiều loại hình văn hóa phi vật thể như diễn xướng, ca múa dân gian, múa lân-sư-rồng, múa hẩu, các loại hình thể thao giải trí v.v.. Các cơ sở tín ngưỡng như miếu, đình với phong cách kiến trúc truyền thống đặc sắc đã góp phần giáo dục các thế hệ trẻ nguồn gốc văn hóa tộc người mình.
Lễ hội miếu bà Thiên Hậu có giá trị về nhiều mặt trong đời sống văn hóa cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ. Lễ hội vía Bà còn là dịp để bà con gặp gỡ nhau, thắt chặt tinh thần cố kết cộng đồng, yếu tố không thể thiếu trong xã hội Á Đông xưa và nay.
Đứng ở góc độ kinh tế, bản sắc văn hóa truyền thống cùng với giá trị tâm linh của tục thờ Thiên Hậu từ rất sớm đã trở thành cơ sở cho sự phát triển du lịch văn hóa – hành hương.
b. Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam có xu hướng Phật giáo hóa. Hiện tượng này vốn dĩ đã bắt nguồn từ lâu đời, rất có thể từ thời còn ở Hoa Nam (Phúc Kiến, Quảng Đông, Đài Loan). Tuy nhiên, tại Nam Bộ, xu hướng ấy càng sâu sắc hơn. Miếu Thiên Hậu được gọi là “Chùa Bà” (The Temple/ Pagoda of Goddess), tương tự miếu Quan Công thường gọi là “Chùa Ông”. Trong suy nghĩa của nhiều người Việt, Thiên Hậu vừa là thánh mẫu vừa là Phật Bà. Điển hình nhất là ngôi Thiên Hậu tự ở số 21 Lê Trực, Quận Bình Thạnh (Tp. Hồ Chí Minh), vừa thờ Thiên Hậu vừa thờ Phật bà Quan âm, các nghi thức cúng tế thực hiện theo cả hai phong cách Phật giáo và tín ngưỡng, và vì thế mới gọi là Chùa Thiên Hậu 天后寺. Miếu Bà Thiên Hậu chợ Phố (Phong Phú, Cầu Kè, Trà Vinh) chuyển dịch lễ vía Bà từ ngày 23 tháng 3 thành ngày Rằm tháng 3 âm lịch (Phú Văn Hẳn 2011). Ngược lại, tại một số chùa Phật giáo có hiện tượng phối thờ Thiên Hậu, như ở chùa Hải Phước An ở Sóc Trăng (Trần Hồng Liên 2005). Không riêng gì tục thờ Thiện Hậu, tín ngưỡng Bà Chúa Xứ và Bà Đen trong khu vực cũng có xu hướng tương tự([11]).
 
Thiên Hậu Tự tại 21 Lê Trực, Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh
Trong suy nghĩ của người Hoa, Thiên Hậu Thánh mẫu là hải thần, vị thần đã giúp tổ tiên họ vượt biển cả gian nan để đến bến bờ mới an toàn. Từ vị trí một vị hải thần, Thiên Hậu đã trở thành thần bảo hộ cho cộng đồng mình, mang đầy đủ ý nghĩa của một vị Bồ tát. Tuy nhiên, trong con mắt của người Việt và người Khmer, Thiên Hậu trước hết là vị phúc thần (Bebevolent Goddess), là một Thánh Mẫu linh thiêng như các Thánh Mẫu khác trong truyền thống như Liễu Hạnh, Bà Chúa Kho, Thiên Y Yana Ponagar, Bà Chúa Xứ v.v.. Với vị trí một phúc thần, Thiên Hậu được người Việt tiếp nhận theo ngả Phật giáo. Trong tư tưởng người Việt, miếu thờ Thiên Hậu là “nhà chùa” (Chùa Thiên Hậu), và Bà Thiên Hậu hiển linh như Phật Bồ tát vậy.
c. Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam là một biểu tượng của sự giao lưu văn hóa Hoa – Việt – Khmer - Chăm, phản ánh sinh động tính chất dung hợp văn hóa đa tộc người, đa văn hóa của vùng văn hóa Nam Bộ. Tục thờ Thiên Hậu nhìn chung mang tính mở, sẵn sàng giao lưu văn hóa đa tộc người. Tín ngưỡng Thiên Hậu hấp thụ văn hóa Việt, Khmer, Chăm; và người lại các tộc người Việt, Khmer, Chăm tiếp nhận Thiên Hậu với tấm lòng thành kính.
(*) Đầu tiên là hiện tượng Việt hóa một số khía cạnh của tín ngưỡng Thiên Hậu ở một số địa phương. Nội dung và hình thức cúng tế bà hiên Hậu có dấu ấn Việt hóa. Cúng cầu an hoàn toàn theo lối người Việt diễn ra ở hầu hết các miếu Thiên Hậu. Khi đánh trống trong các dịp lễ hội, người Việt luôn gióng 3 hồi, các miếu Thiên Hậu cũng gióng 3 hồi, trong đó gồm 2 hồi gióng theo quy ước chung của người Hoa và 1 hồi để tạ ơn đất nước và con người Việt Nam đã cưu mang họ (Trần Hồng Liên 2006).
Tại hội quán Nghĩa Nhuận và đình Minh Hương Gia Thạnh, các buổi cúng tế đều tiến hành nghi lễ trong trang phục truyền thống của người Việt, đặc biệt chủ lễ mặc chiếc áo thụng màu xanh dương kiểu Việt. Nghi thức và văn tế cũng được đọc bằng tiếng Việt. Sau cúng tế thường có diễn tuồng, song các vở diễn thường bằng tiếng Việt (trừ các miếu Thiên Hậu ở Tp. Hồ Chí Minh) và diễn theo phong cách Việt kịch dù nội dung tuồng có gốc tích từ Trung Quốc. Tại Hà Tiên, lễ vía Thiên Hậu có hát Tiều hát Quảng diễn theo phong cách người Việt và bằng tiếng Việt (Trần Hồng Liên 2006; Võ Văn Hoàng 2009). Tương tự, chùa Bà Thiên Hậu (phường 2, TP Cà Mau) có ban nhạc Đồng Tâm nghiệp dư Âm nhạc xã của người Hoa biểu diễn các tuồng tích, hát Hồ Quảng… thu hút đông đảo đồng bào người Hoa và cả người Việt, người Khmer đến tham dự (tindulich.vn).
Lễ khai ấn tại miếu Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam thường diễn ra trước tết với hy vọng chuyển tiếp từ năm cũ sang năm mới đã có được sự phò trợ của bà Thiên Hậu, giúp cho nước được thịnh, dân được yên trong năm mới, hoàn toàn giống với tâm tư người Việt (Trần Hồng Liên 2005).
Về mặt chủ thể, một số miếu Thiên Hậu tại đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu có sự dịch chuyển từ cộng đồng người Hoa Phúc Kiến, Triều Châu sang cộng đồng người lai Hoa – Việt (còn gọi là Minh Hương). Chẳng hạn, Phước Minh Cung của người Mân Nam ở Trà Vinh dần dà trở thành nơi thờ tự của những người Phúc Kiến lai Việt do cộng đồng này dung hòa khá nhanh vào cộng đồng người Việt. Vĩnh Triều Minh hội quán ở Bạc Liêu cũng là trường hợp tương tự đối với cộng đồng người Triều Châu lai Việt. Thiên Hậu miếu ở Cái Răng tuy không lớn nhưng là một công trình văn hóa cổ kính tiêu biểu cho văn hóa người Hoa ở Cần Thơ nói riêng và Nam Bộ nói chung. Đây là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cả cộng đồng người Hoa và bà con người Việt, người Khmer (livecantho.com). Một bộ phận người Hoa gốc Phúc Kiến và Triều Châu từ đất Nam Bộ Việt Nam sang định cư tại Los Angeles (California) những thập niên cuối thế kỷ 20 cũng xây miếu Thiên Hậu, các tín đồ người Phúc Kiến, Triều Châu ở đây đại đa phần nói tiếng Việt, nghi thức cùng tế thực hiện bằng tiếng Việt (tư liệu thực tế 2009).
Một số nơi người ta phối thờ Thiên Hậu với các vị thần người Việt. Tại miếu Thiên Hậu (quận 3, thành phố Hồ Chí Minh), Bà Chúa Xứ được đưa vào điện thờ chung với Thiên Hậu. Tương tự, các vị thần gốc người Việt như Tả Ban, Hữu Ban, Tiền Vãng, Hậu Vãng v.v. cũng được phối thờ ở một số miếu rải rác ở Nam Bộ([12]).
Hình thức kiến trúc và nguyên vật liệu xây dựng cũng mang nhiều dấu ấn bản địa hóa. Theo thời gian, những chất liệu bằng gỗ thường có tuổi thọ thấp, thêm vào đó bị thiên nhiên và bàn tay con người tàn phá, nên trong quá trình trùng tu, sửa chữa, họ phải thay bằng các chất liệu mới có sẵn tại địa phương. Những chi tiết trang trí ban đầu trên các di tích thường là những đồ án cổ điển của Trung Hoa như: bát tiên, bát bửu, long mã hà đồ, lưỡng long tranh châu, lưỡng long triều nhật, chồng thư ống bút, mâm bồng lọ hoa, quả đào, quả lựu, quả phật thủ, hoa cúc, hoa mẫu đơn, rồng phượng, liên áp, lân giáo tử; các tích truyện của Trung Quốc như: Phong Thần, Tam Quốc Diễn Nghĩa, v.v…, dần dần cũng thay đổi hoặc có thêm nhiều môtíp trang trí mới, gắn liền với thiên nhiên, con người, động vật, thực vật của miền đất Nam Bộ trù phú như cấy trái, chim muông, dây bầu, mãng cầu, hàng dừa, bụi tre, khóm trúc, chiếc cầu tre, chiếc xuồng ba lá, cánh đồng, ao sen và cả bầy vịt trời v.v.. Tiêu biểu có thể thấy ở miếu Quỳnh Phủ (Tp. Hồ Chí Minh), ngoài các hoa văn trang trí kể trên còn có 6 bức sơn mài miêu tả hình ảnh Lục Vân Tiên cưỡi ngựa, tay cầm gậy giao chiến với Phong Lai, trên đó có 12 câu thơ lục bát bằng tiếng Việt của Nguyễn Đình Chiểu (Võ Văn Hoàng 2009). Hình ảnh các anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Lê Lợi cũng được đưa vào làm nền trang trí cho các ngôi miếu xưa như Nghĩa Nhuận hội quán (quận 5, Tp. Hồ Chí Minh) chẳng hạn.
Ngoài tiếp nhận văn hóa Việt, tục thờ Thiên Hậu còn thẩm thấu văn hóa Khmer và Chăm. Trong miếu Thiên Hậu chợ Phố (Phong Phú, Cầu Kè, Trà Vinh), Bà Thiên Hậu được phối thờ với Naek Ta và Trịnh Hòa (Phú Văn Hẳn 2011). Tại vùng Vĩnh Châu (Sóc Trăng), nơi cộng cư Việt – Hoa – Khmer, nhiều gia đình Khmer khi lập đàn thờ Naek Ta (thần Đất) thì có thêm bài vị khắc chữ Thần bằng tiếng Hán trên trang thờ. Ngược lại trong miếu Thiên Hậu ở Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), ở giữa sân có thờ thổ thần bằng phiến đá phủ vải đỏ có ghi ba chữ “Thạch thần cung 石神宫”, chính là thờ Naek Ta của người Khmer (Trần Hồng Liên 2006). Trong tâm thức của nhiều cư dân Nam Bộ, Thánh mẫu trong truyền thống có từ đất Bắc cùng kết hợp với hình ảnh Thánh mẫu của người Chăm (Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Y Yana) và Bà Thiên Hậu, đều là những vị Mẫu cao quý, luôn ban phúc lành cho dân chúng. Chính vì thế, ở hình ảnh Bà Chúa Xứ (núi Sam, Châu Đốc), người ta thấy cả hình ảnh Mẫu Thiên Y Yana của người Chăm và Bà Thiên Hậu của người Hoa. Bên cạnh đó, bóng rổi – một hình thức nghệ thuật dân gian Chăm, đã bắt đầu xuất hiện trong lễ vía Thiên Hậu tại một số khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tại An Giang (Phú Văn Hẳn 2011).
(2) Bên cạnh đó là hiện tượng một bộ phận người Việt, Khmer trong khu vực tiếp nhận và thực hiện các nghi thức cúng tế Thiên Hậu như người Hoa([13]). Miếu Thiên Hậu ở Giồng Trôm (Bến Tre) do chính người Việt lập ra để thờ Bà. Trong một vài ngôi chùa người Việt ở Nam Bộ, bên cạnh thờ Phật, người ta đã bắt đầu đặt ngẫu tượng bà Thiên Hậu cùng thờ, chẳng hạn chùa Vĩnh Phước An ở Sóc Trăng. Ở Nghĩa Nhuận hội quán, một ngôi chùa người Việt thờ Thành hoàng bổn cảnh, người ta còn phối thờ cả Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Công (Nguyễn Đức Hiệp 2011). Ở Chùa Tổ thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, vốn là một ngôi miếu thờ Tổ nghề của người Việt, người ta phối thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu (Võ Văn Hoàng 2009).
Trong bất kì hoạt động lễ hội nào diễn ra ở các miếu Thiên Hậu, người Việt đều tham gia với tất cả lòng cung kính, nhiệt thành. Và vì thế, để phục vụ đông đảo các tín đồ người Hoa và người Việt, ở nhiều miếu Thiên Hậu người ta tổ chức tế lễ và hát tuồng bằng tiếng phổ thông – tiếng Việt (Võ Văn Hoàng 2009). Tại Tp. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ, hiện tượng đi viếng chùa Bà Thiên Hậu tại Bình Dương những ngày đầu năm mới âm lịch đã trở thành một phong tục quan trọng trong năm. Trong những ngày ấy, số thiện nam tín nữ người Việt đến viếng chiếm đại đa số, mỗi ngày có đến hàng ngàn người, náo nhiệt hơn hẳn những cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo của chính người Việt. Ở cộng đồng Khmer Nam Bộ vùng Vĩnh Châu và nhiều nơi khác ở bán đảo Cà Mau, người ta cung kính thờ Thiên Hậu tại gia đình cùng với tổ tiên mình (Trần Hồng Liên 2006). Trong các lễ hội gắn liền với miếu Thiên Hậu tại địa phương, người Khmer cũng tham gia nhiệt tình như người Hoa và người Việt.

Kết luận

Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu gốc Hoa Nam đã theo bước dân người Hoa đến Nam Bộ Việt Nam từ các thế kỷ 17, 18, 19, đã trở thành một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu phổ biến tại Nam Bộ. Tục thờ này cùng với các hoạt động văn hóa – nghệ thuật và các khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với nó đã sớm trở thành một kênh gìn giữ, lưu truyền văn hóa truyền thống, cũng là một kênh giáo dục đạo đức, lối sống hiệu quả và sâu sắc người Hoa. Trong mối tương quan với văn hóa các tộc người Việt, Khmer và Chăm trong vùng, tín ngưỡng Thiên Hậu đã góp phần quan trọng tạo nét đặc trưng văn hóa mang tính bản sắc của tộc người Hoa – một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Cùng sinh sống trên vùng đất tích hợp đa văn hóa, người Việt và người Khmer tại Nam Bộ tiếp nhận tục thờ Thiên Hậu qua kênh tín ngưỡng thờ Mẫu và kênh Phật giáo Bắc Tông, theo đó, trong tâm thức của họ, Thiên Hậu trở thành một vị Phúc thần, một vị Thánh mẫu từ bi và linh hiển hay một vị Phật bà đầy huyền bí. Tín ngưỡng Thiên Hậu từ đó đã chuyển đổi chức năng của mình.
Cùng với quá trình dung hợp văn hóa đa tộc người trong suốt ba trăm năm qua, tín ngưỡng Thiên Hậu dần dà hấp thụ các yếu tố văn hóa khác từ các cộng đồng Việt, Khmer, Chăm để làm giàu thêm phong tục của mình, đồng thời biến tục thờ Thiên Hậu thành một biểu tương giao lưu văn hóa sinh động tại Nam Bộ. Hiện tượng giao thoa văn hóa Hoa, việt, Khmer và Chăm qua tục thờ Thiên Hậu có thể được xem là một mẫu hình của sự chung sống chan hòa và gắn bó các tộc người nhằm hướng tới sự phát triển mang tính bền vững tại vùng đất Nam Bộ Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
  1. 1.Phan An-Phan Yến Tuyết-Trần Hồng Liên-Phan Ngọc Nghĩa 1990: Chùa Hoa Thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP.HCM ,1990
  2. 2.Phan An chủ biên (1990), Người Hoa quận 6 thành phố Hồ Chí Minh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận 6 thành phố Hồ Chí Minh
  3. 3.Phan An 2002: “Tục thờ cúng Bà Thiên Hậu của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3-2002, tr. 54-57
  4. 4.Phan An, Trần Đại Tân, Lưu Kim Hoa, Lê Quốc Lâm 2006: Góp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam bộ, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa-thông tin
  5. 5.Toan Ánh 1992: Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, NXB Tp.HCM.
  6. 6.Ban Quản trị hội quán Hải Nam (2006), Quỳnh Phủ hội quán Tp. Hồ Chí Minh - Hội quán chùa Bà Hải Nam.
  7. 7.Võ Thanh Bằng (2005), Tín ngưỡng dân gian của người Hoa ở Nam Bộ, Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
  8. 8.Châu Hải 1992: Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 153 tr.
  9. 9.Phú Văn Hẳn 2011: “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng sông Cửu Long”, tài liệu đánh máy của tác giả.
  10. 10.Nguyễn Đức Hiệp 2011: “Chợ Lớn: lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa”, www.diendan.org
  11. 11.Nguyễn Duy Hinh 2004: “Mẫu trong tín ngưỡng Trung Quốc cổ đại”, Đạo Mẫu và các hình thức shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á, NXB KHXH.
  12. 12.Võ Văn Hoàng 2008: “Thiên Hậu thánh mẫu trong tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa ở Hội An”, Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
  13. 13.Võ Văn Hoàng 2009: “Tiếp xúc và giao lưu văn hóa của cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ”, http://vn.360plus.yahoo.com/hoangcamchau/article?mid=65&;fid=-1
  14. 14.Tống Quốc Hưng (2009), “Cộng đồng người Hoa – Minh Hương ở thương cảng Hội An”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3.
  15. 15.Trần Khánh 1992: Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  16. 16.Vũ Ngọc Khánh, Mai Ngọc Chúc, Phạm Hồng Hà 2002: Nữ thần và thánh mẫu Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
  17. 17.Đặng Hoàng Lan 2011: “Khai thác giá trị hoạt động du lịch trong lễ hội vía Bà Thiên Hậu của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
  18. 18.Vũ Lê 2004: “Văn hóa người Hoa ở Tp. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 12/2004.
  19. 19.Trần Hồng Liên 2005: Văn hóa người Hoa ở Nam bộ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội
  20. 20.Trần Hồng Liên 2005: “Tục thờ cúvà lễ hội truyền thống của Bà Thiên Hậu ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tham luận  Hội thảo Folklore Châu Á, Viện Văn hóa dân gian.
  21. 21.Trần Hồng Liên 2007: “Tục thờ cúng và lễ hội truyền thống của bà Thiên Hậu ở Việt Nam”, Giá trị và tính đa dạng của folklore châu Á trong quá trình hội nhập, Nxb. Thế giới.
  22. 22.Trần Hồng Liên chủ biên 2007: Góp phần tìm hiểu văn hoá người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
  23. 23.Phan Thị Hoa Lý 2010: “Truyền thuyết Thiên Hậu ở Trung Quốc và Việt Nam”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
  24. 24.Lê Hồng Lý (1999), “Hội đền Thiên Hậu”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2.
  25. 25.Lý Phát, Đỗ Tiến: “Bước đầu tìm hiểu về cộng đồng người Hoa Phúc Kiến ở phường Chánh Nghĩa, Thủ Dầu Một, Bình Dương”, www.sugia.vn.
  26. 26.Nguyễn Ngọc Thơ 2009: Goddess beliefs in Chinese Ling’nan area, www.harvard-yenching.org
  27. 27.Nguyễn Ngọc Thơ 2011: “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hoa Nam”, Tạp chí Phát triển khoa học và công nghệ, tập 14: 42-60.
  28. 28.Nguyễn Cẩm Thúy 2000: Định cư của người Hoa trên đất Nam bộ (từ thế kỷ 17 đến năm 1945), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
  29. 29.Tsai Maw Kuey (1968), Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Bộ Quốc gia Giáo dục.
  30. 30.Phạm Văn Tú (2008), “Thiên Hậu thánh mẫu - vị nữ thần biển khơi và sự thâm nhập của tín ngưỡng này vào vùng biển phía Nam”, Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
  31. 31.Nguyễn Thị Thu Trúc 2007: Tượng và quần thể tiểu tượng gốm của người Hoa ở Sài Gòn, trường hợp miếu Thiên Hậu – hội quán Tuệ Thành (Tp.HCM), Luận văn Thạc sĩ, 290 tr.
  32. 32.Phạm Văn Tú 2011: Tín ngưỡng dân gian Việt Nam Cà Mau, NXB Khoa học xã hội, 147 trang.
  33. 33.Nguyễn Thị Thanh Xuyên (2008), Tín ngưỡng Thiên Hậu ở quận 5 thành phố Hồ Chí Minh,  Luận văn tốt nghiệp đại học, ngành Nhân học, trường Đại học KHXH & NV thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếng Anh
  1. 34.Edward H. Schafer 1967: The vermilion bird – T’ang images of the South, University of California Press.
  2. 35.Hellen Hye-Sook Hwang 2008: “Issues in studying Mago, the great goddess of East Asia: primary sources, gynocentric history, and nationalism”, The Constant and changing faces of the goddess: Goddess traditions of Asia (etd by Deepak Shimkhada and Phyllis K. Herman), Cambridge Scholars Publishing, pgs. 10-32
  3. 36.Laurance G. Thompson 1973: “The Cult of Matsu”, The Chinese way in religion, Dickenson Publishing Company.
  4. 37.Paul Reid-Bowen 2007: Goddess as nature: towards a philosophical thealogy, Ashgate Publishing Limited.
  5. 38.Tran Hong Lien 2006: “Integration of chinese community in Vietnam”, trong sá“Cultural Encounters between people of Chinese Origin and Local people: case studies from the Phlippines and Vietnam.”. Edited by Yuko Mio. Research Institute for Languages and Cultures of Asia and Africa (ILCAA). Tokyo University of Foreign Studies. pp.87-95.
  6. 39.Wolfram Eberhard, The local cultures of South and East China, translated from German by Alide Eberhard, Leiden E.J. Brill, 1968
Tiếng Trung
  1. 40.Chu Thiên Thuận 1986: Nguồn gốc tín ngưỡng Ma Tổ và quá trình truyền bá thời Tống, Học báo ĐH hạ Môn kì 2 (朱天顺 1986妈祖信仰的起源及其在宋代的传播厦门大学学报,第二期).
  2. 41.Chu Thiên Thuận 1990: Tín ngưỡng Ma Tổ nên hòa hợp cùng xã hội đương thời, Học báo Đại học Hạ Môn, kì 4, trang 86-89 (朱天顺 1990妈祖信仰应与当前社会相协调厦门大学学报,第4期, 86-89 页).
  3. 42.Chu Thiên Thuận: Yếu tố xã hội chủ yếu tác động đến quá trình truyền bá tín ngưỡng Ma Tổ thời kì Nguyên – Minh (朱天顺:元明时期促进妈祖信仰传播的主要社会因素).
  4. 43.Hoàng Tú Lâm 2005: “Diễn tiến và thuyết mới về tác dụng văn hóa xã hội của tín ngưỡng Ma Tổ”, TC Văn Sử Lĩnh Nam, kì 2: 55-58 (黄秀琳2005: 妈祖信仰文化社会功能的演进与新说, 岭南文史, 2: 55-58).
  5. 44.La Xuân Vinh 2006: Nghiên cứu văn hóa Ma Tổ, NXB Cổ tịch Thiên Tân (罗春荣 2006妈祖文化研究,天津古籍出版社)
  6. 45.Lâm Mỹ Dung 2005: Tín ngưỡng Ma Tổ và xã hội người Hán (林美容2005妈祖信仰与汉人社会).
  7. 46.Lý Lộ Lộ 2003: Thần vận Ma Tổ, NXB Học Phạm (李露露 2003妈祖神韵,学范出版社).
  8. 47.Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp 2006: Toàn tượng Ma Tổ, NXB Mỹ thuật Giang Tây (马书田,马书侠 2006全像妈祖,江西美术出版社).
  9. 48.Trung Đài Loan (蔡相辉 2006台湾民间信仰专题:妈祖 国立空中大学)
  10. 49.Trương Tuần 2005: Văn hóa Ma Tổ: tuyển tập các bài viết về tín ngưỡng Ma Tổ ở Đài Loan (张珣2005文化妈祖:台湾妈祖信仰研究论文集)
  11. 50.Viên Chung Nhân 1998: Văn hóa Lĩnh Nam, NXB Giáo dục Liêu Ninh (袁钟仁 1998岭南文化,辽宁教育出版社).
  12. 51.“16 Truyền thuyết cuộc đời Ma Tổ”, Tạp chí Đài Thanh, tháng 6/2004 (妈祖生平16传说,《台声》; 200406).
  13. 52.“18 truyền thuyết hiển linh của Ma Tổ”, Tạp chí Đài Thanh, tháng 6/2004 (妈祖显录18传说, 《台声》2004年第06).
Tài liệu mạng
  1. 53.http://www.binhthanh.hochiminhcity.gov.vn/gioithieu/Lists/Posts/Post.aspx?List=ae22a659%2Daebe%2D41ba%2Daa8a%2D5b48611a1e11&;ID=7
  2. 54.http://www.baotayninh.vn/newsdetails.aspx?id=217&;newsid=24320
  3. 55.http://tindulich.vn/news-non-nuoc-viet-nam/tong-quan/22114-mieu-ba-thien-hau-dau-an-cua-nguoi-hoa-o-ca-mau.html
  4. 56.http://livecantho.com/du-lich-can-tho/tim-hieu-can-tho/thien-hau-mieu-cai-rang


[1] có ghi trong Thiên Hậu chí, Lâm hiếu nữ sự thực, Thiên phi hiển thánh lục, Di Kiên Chí
([2]) như Long Mẫu vùng trung lưu Tây Giang, Lâm Thủy phu nhân ở Phúc Kiến, Tiễn phu nhân ở tây nam Quảng Đông.
([3]) Số liệu thống kế đến ngày 30/4/2012.
([4]) tượng nhỏ cung nghênh đi diễu hành ngày vía Bà 23 tháng ba, tượng trung cung ngênh bà thưởng ngoạn các hoạt động văn hóa – nghệ thuật.
([5]) Nữ thần bảo trợ việc sinh đẻ
([6]) Long Mẫu tên thật là Ôn Long Cơ (温龙姬), người gốc Âu Việt, quê quán Đằng Huyện, Quảng Tây. Bố mẹ chẳng may bị lũ cuốn trôi, duy chỉ có Long Mẫu được lão đánh cá vùng Duyệt Thành (Triệu Khánh, Quảng Đông) tên là Lương Tam Công (梁三公) cứu sống từ một chiếc thuyền thúng trôi giữa dòng sông. Long Cơ sắc xảo thông minh, nhờ nuôi 5 con rồng con nên được gọi là Long Mẫu. Về sau, bà hợp nhất 5 bộ lạc Âu Việt vùng trung và thượng lưu sông Tây Giang chống quân Tần. Sau khi qua đời, bà được suy tôn thành nữ thần cai quản dòng Tây Giang và vùng đất rộng lớn thuộc thượng và trung lưu sông Tây Giang. Cũng có thuyết cho rằng Long Mẫu là hình ảnh vua Dịch Hu Tống (译吁宋) – lãnh tụ chống quân Tần thất bại năm 218 TCN, đã “nữ thần hóa” theo truyền thống Âu Việt (Trần Thiệu Cơ 2004; Trần Trạch Hoằng 2007: 379-388; Hoàng Vĩ Tông 2004: 10-11).
([7]) Gồm 1. Kim Hoa nương nương; 2. Thiên Địa phụ mẫu; 3. Văn Xương; 4. Tề Thiên Đại Thánh; 5. Hoa Ông - Hoa Bà; 6. Thanh Long; 7. Thái Tuế; 8. Bảo Thọ; 9. Quan Thánh; 10. Long Mẫu nương nương; 11. Bắc Đế; 12. Quan Âm; 13. Bạch Vô Thượng; 14. Thần Nông; 15. Bạch Hổ; 16. Ngọc Hoàng; 17. Bao Công; 18. Tài Bạch Tinh Quân (Thần Tài); 19. Thiên Quan Tứ Phước (ông Thiên); 20. Phúc Đức Chánh Thần (Thổ Địa); 21. Môn quan Vương Tả (Quan gác cửa); 22. Cửu Thiên Huyền nữ.
([8]) Hiện nay Tp. Hồ Chí Minh không còn lệ này do đường phố chật hẹp, người đông đúc.
[9] Trên thực tế, người Hoa định cư chủ yếu ở thị trấn, thị xã, thành phố, miếu Thiên Hậu thường xây giữa phố phường nên trong tâm thức người Việt Thiên Hậu là phúc thần chứ hoàn toàn không gắn liền với chức năng hàng hải.
[10] Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu nổi bật nhất ở cộng đồng người Hoa Quảng Đông, Triều Châu và Hải Nam; trong khi tín ngưỡng thờ Quan Công nổi trội ở người Hoa Phúc Kiến và Khách Gia.
([11]) Tại điện Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen) ở Tây Ninh người ta xây dựng Chùa Linh Sơn bao quanh, Linh Sơn Thánh Mẫu được ví như Phật Quan âm (tư liệu điền dã 2011).
([12]) Hiện tượng bản địa hóa còn thể hiện ở nhiều nơi khác ngoài Nam Bộ, chẳng hạn tại Thiên Hậu Cung ở làng Thanh Phước (Huế), người ta đặt thêm một pho tượng nam thần phía trước tượng Thiên Hậu và bảo rằng đó là con trai Thiên Hậu. Trong suy nghĩ của nhiều người Huế, Thiên Hậu là một “người mẹ vĩ đại”, và do vậy bên cạnh bà có những đứa con.
([13]) Hiện tượng này hầu như không xảy ra ở cộng đồng người Chăm bởi các chế định chặt chẽ của Islam.

Tóm tắt
Tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu (Bà Ma Tổ, Bà Mã Châu) gốc Hoa Nam đã theo bước di dân người Hoa đến Nam Bộ Việt Nam từ các thế kỷ 17- 19, đã trở thành một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu khá phổ biến tại đồng bằng Nam Bộ. Tục thờ này cùng với các hoạt động văn hóa – nghệ thuật và các khía cạnh văn hóa vật thể gắn liền với nó đã sớm trở thành một “kho tàng” văn hóa dân gian, ở đó người ta gìn giữ linh hồn của truyền thống, đồng thời cũng là một kênh giáo dục đạo đức, lối sống hiệu quả và sâu sắc của người Hoa nói riêng, của các tộc người Nam Bộ nói chung. Trong mối tương quan với văn hóa dân gian các tộc người Việt, Khmer và Chăm trong vùng, tín ngưỡng Thiên Hậu đã góp phần quan trọng tạo nét đặc trưng mang bản sắc người Hoa – một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, ngày càng có giá trị lớn lao trong quá trình dung hợp đa văn hóa để tạo nên diện mạo văn hóa Nam Bộ Việt Nam trong suốt 300 năm qua.
Trong quá trình lịch sử văn hóa vùng đất Nam Bộ, tín ngưỡng Thiên Hậu dần dà hấp thụ các yếu tố văn hóa khác từ các cộng đồng Việt, Khmer, Chăm, vận động và biến đổi để làm giàu thêm truyền thống của mình, biến tục thờ thành một biểu tượng giao lưu và dung hợp văn hóa sinh động. Hiện tượng giao thoa văn hóa Việt-Hoa, Hoa-Khmer hay Việt-Hoa-Khmer qua tục thờ Thiên Hậu, nhất là từ sau thống nhất đất nước 1975 đến nay, có thể được xem là một mẫu hình của sự chung sống chan hòa và gắn bó các tộc người nhằm hướng tới sự phát triển mang tính bền vững tại vùng đất Nam Bộ. Ở một chừng mực nhất định, tín ngưỡng này có thể được xem là một biểu tượng của văn hóa Nam Bộ.
Từ khóa: Thiên Hậu, người Hoa, văn hóa, giao lưu, dung hợp

RELIGIOUS CULTURE AND DEVELOPMENT: THE CULT OF THIEN HAU (TIAN HOU) IN SOUTHERN VIETNAM
The Chinese traditional cult of Tian Hou (Thien Hau, Mazu), accompanying the Hoa (Chinese) migrants to Southern Vietnam from the 17th to 19th century, has become a fairly common form of Goddess worship Southern Vietnam. This worship, along with the cultural and artistic activities and other aspects of material culture associated with it, has soon become a "treasure" of folk culture, in which people preserve the profound spirit of tradition. Additionally, the cult has been considered as a channel of moral education to attain the effective and insightful way of life within the Hoa communities in particular, of the whole nation in general. In relation to the folklore of the ethnic Viet, Khmer and Cham in the region, the cult of Tian Hou has contributed greatly to the formation of the Hoa’s identity - a part of the multi-ethnical state of Vietnam. It has hencely expressed the great values in process of multicultural acculturation to create the appearance of Southern Vietnam culture over the past 300 years.
During the cultural-historical processes of Southern Vietnam, the cult of Thien Hau has gradually absorbed in different cultural elements from the Viet, the Khmer and the Cham, adjusted and changed to enrich their traditional sources, turned into a lively symbol of multicultural exchanges and fusion. The phenomenon of cross-cultural Hoa-Viet, Hoa-Khmer or Hoa-Viet-Khmer manifested in the cult of Tian Hou, especially after the National Unification in 1975, can be seen as a model of coexistence in harmony and cohesion of ethnic groups towards the sustainable development in the Southern region. To some extent, this cult can be seen as a symbol of Southern Vietnamese culture.
Key words: Tian Hou, the Hoa (Chinese Vietnamese), culture, exchange, acculturation