Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 120827
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"
Một thành tích bất ngờ của Việt Nam là "Năng Suất Tham Ô"
* Những con rồng thẳng cẳng *
Bài viết này sẽ ngắn gọn tổng hợp một số dữ kiện về kinh tế, nhưng để nói về vụ khủng hoảng chính trị tại Việt Nam.
Sau cả chục
năm gần như mỗi ngày có mặt trên trang nhất của thời sự quốc tế, vì một
cuộc chiến có sự tham dự của Hoa Kỳ, Việt Nam đã trôi vào lãng quên đến
hai chục năm, từ 1975 đến 1995. Năm 1995 là khi Hà Nội tái lập bang giao
với Hoa Kỳ. Đấy cũng là khi Việt Nam thật sự đổi mới kinh tế sau những
dọ dẫm và cố gắng nửa vời. Nhìn lại thì 10 năm đầu sau chiến tranh là 10
năm lãng phí và khủng hoảng do sự hoang tưởng của ý thức hệ nên lãnh
đạo Hà Nội mới phải cải cách về kinh tế mà chưa biết thế nào là đúng là
sai. Hai chục năm sau thì mới khác, từ 1995.
Việc Việt Nam
ký kết Hiệp định Thương mại Song phương với Hoa Kỳ cuối năm 2001 rồi gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm 2007 đánh dấu một giai đoạn
tăng trưởng ngoạn mục so với quá khứ của Việt Nam. So với các quốc gia
khác, đà tăng trưởng khoảng 7% một năm chỉ là sự thường khi kinh tế
chuyển hướng theo quy luật thị trường, hãy hỏi người dân Đông Á thì
biết. Nhưng cũng từ năm 2007, Việt Nam bắt đầu trôi vào giông bão.
Và tuần qua,
nếu thời sự quốc tế lại nhắc đến Việt Nam thì chẳng là về thành tích
kinh tế mà vì một vụ khủng hoảng chính trị. Đó là việc bắt giữ một đại
gia nhiều thế lực....
Năm 1995 là
khi Tổng sản lượng Việt Nam vượt qua dấu mốc đáng nhớ là 20 tỷ Mỹ kim
một năm, lên gấp đôi vào năm 2003, rồi gấp đôi tức là 80 tỷ vào năm
2007, và đạt mức trăm tỷ vào năm 2009. Hiện nay, Tổng sản lượng xứ này ở
gần 130 tỷ đô la, chia cho dân số là 90 triệu thì người dân thật ra vẫn
còn thuộc loại nghèo. Nhưng đà tăng vọt từ hai chục tỷ lên gấp sáu
trong khoảng thời gian từ 1995 đến nay là điều đáng mừng. Sau quá nhiều
hoạn nạn vì chiến tranh và cách mạng, người dân xứng đáng được hưởng một
cuộc sống khác.
Khi hỏi các
kinh tế gia, họ cho biết là từ 1996 đến năm 2000, Việt Nam đạt tốc độ
tăng trưởng trung bình là 6,9% một năm, tức là mỗi năm lại sản xuất thêm
được một lượng sản vật bằng 6,9% của năm trước. Qua giai đoạn 2001-2005
thì đà tăng trưởng còn lên tới 7,5% một năm với viện trợ và đầu tư nước
ngoài được ồ ạt trút vào trong sự hồ hởi chung. Đấy cũng là một đòn bẩy
đã tạo nên sức bật huy hoàng này.
Nhưng ngẫm lại
thì Việt Nam có hy vọng khởi phát tương tự Đài Loan hay Nam Hàn nửa thế
kỷ về trước. Qua giai đoạn 2006-2010 thì mức bột phát ấy đã khựng, còn
khoảng 7,1% một năm và tới năm 2011 thì chỉ còn 5,9%. Tình hình năm nay
sẽ là đáng ngại, chỉ ở khoảng 4,3-4,5% mà thôi.
Câu hỏi nhiều
người muốn biết là vì sao Việt Nam đã ôm viễn ảnh rồng cọp kinh tế rồi
lại như kỳ nhông cắc ké? Câu trả lời đơn giản là "kinh tế cũng là chính
trị".
Thật ra, lãnh
đạo Việt Nam không phát minh ra cây đũa thần kinh tế để thay thế chủ
nghĩa Mác-Lênin đã phá sản. Việt Nam chỉ áp dụng chiến lược Đông Á như
Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn rồi Trung Quốc, là lấy xuất cảng làm đầu máy
tăng trưởng.
Dù là một quốc
gia có nhiều tài nguyên, ít ra là hơn ba nước Đông Á dẫn đầu nói trên,
Việt Nam vẫn chủ yếu nhập cảng nguyên nhiên vật liệu, tái chế biến với
một số trị giá gia tăng để bán ra ngoài. Như vậy, nền kinh tế này chỉ
làm gia công và nhập cảng vẫn là chủ yếu, thường xuyên. Nhưng lại tăng
vọt trong năm năm gọi là ngoạn mục nhất, từ 2006, nên hàng năm vẫn bị
nhập siêu, nhập nhiều hơn xuất, trung bình mỗi tháng một tỷ đô la.
Muốn kinh tế
tăng trưởng, người ta phải tiết kiệm tiêu thụ mà dùng tài nguyên đó đầu
tư cho sản xuất với hy vọng tạo thêm tài nguyên của cải cho sau này.
Việt Nam phải đầu tư rất nhiều để có mức tăng trưởng ngoạn mục đã qua.
Từ khoảng 35% tổng sản lượng trong các năm 1996-2000, tỷ lệ đầu tư của
Việt Nam đã vượt 43% trong các năm 2006-2010. Nếu nhớ lại thành tích vừa
trình bày ở trên, khi Việt Nam phải đầu tư nhiều nhất thì cũng là lúc
đà tăng trưởng giảm sút.
Nghĩa là gắng sức đầu tư mà kém hiệu năng, tức là một vấn đề về chính sách.
Các sinh viên
kinh tế nhập môn đều biết đến tỷ số ICOR: phải đầu tư cỡ nào để gia tăng
được một đơn vị sản xuất? Các nước Đông Á đầu tư ba phần thì ăn được
một, Việt Nam phải mất gấp đôi, với tỷ số ICOR là 6.
Người ta có
thể tìm lý do châm chước là vụ Tổng suy trầm kinh tế toàn cầu trong các
năm 2008-2009. Nhưng lý do chính sách ở đây là tín dụng. So với năm 2000
thì lượng tín dụng đã tăng gần 14 lần vào năm 2010 với kết quả là nâng
gấp đôi sản lượng trong 10 năm đó. Xin hãy nhớ đến tỷ số 14/2 như một
cách tính nhẩm về sự phi lý tại Việt Nam.
Thật ra, lý do chính sách ở đây chỉ là chính trị.
Vì đấy là lúc
mà các đại gia ngân hàng tung hoành. Họ có thể vay tiền mua đất, chơi
stock và sát nhập công ty để bành trướng thế lực như trong một bàn cờ
Monopoly của trẻ nít. Nền kinh tế có năng suất kém vì phải đầu tư nhiều,
với hiệu năng quá thấp, lại sản sinh ra một thành phần thiểu số cực kỳ
giàu có, họ còn trơ trẽn phô trương sự giàu có này như những tấm gương
thành công! Thế hệ trẻ mà nhìn vào đó như mẫu mực thì xã hội lâm nguy,
là điều đã xảy ra. Sa đọa xã hội đã bùng nổ.
Ngày nay, mọi
người đều thấy các "trung tâm sản nhập" là tập đoàn kinh tế nhà nước
kiểu Vina, như Vinashin hay Vinalines. Sản nhập vì thu vào một nhập
lượng cực lớn để cho ra một xuất lượng thấp hơn. Phần sai biệt mà kế
toán gọi là lỗ lã thì chảy vào trong túi một thiểu số. Ở vòng ngoài là
các đại gia có quan hệ với đảng viên cán bộ cao cấp để mở ra thị trường
"tư doanh nhập nhằng" và kiếm tiền vô tội vạ. Tư doanh nhập nhằng vì chỉ
là của tư nhân trên danh nghĩa, về thực chất thì đấy là mạng lưới kinh
doanh của lãnh đạo.
Việt Nam đã định chế hóa sự tham ô qua chính sách quản lý quái gở đó.
Khi người dân
công phẫn về nạn cướp đất của đám cường hào ác bá và bất mãn về tình
trạng tham nhũng tràn lan, lãnh đạo bắt đầu nói đến chỉnh đảng và giải
trừ tham nhũng. Với kết quả là hai hệ thống truy lùng tham nhũng song
hành - của đảng và của nhà nước, do viên Thủ tướng vẫn đòi lãnh đạo. Khi
những người tham ô nhất nước mà cầm đầu việc diệt trừ tham nhũng trong
hàng ngũ bên kia thì người ta biết kết quả sẽ ra sao.
Việt Nam đã đạt năng suất tham ô tới hạng siêu phàm nên đang lâm vào khủng hoảng chính trị.
Chi tiết hình
sự hữu duyên là kẻ bị bắt có khi đang được bảo vệ để khỏi bị phe phái
của chính anh ta "tự tử", hoặc lặng lẽ thủ tiêu để khỏi thành thật khai
báo nhiều quá!
Nhưng còn đời
sống kinh tế của người dân? Xin hãy nhìn lên núi nợ khó đòi và sẽ mất
của hệ thống ngân hàng. Nợ thối là bao nhiêu, bao giờ sẽ ụp xuống đầu,
không ai biết! Hoặc liếc qua chuyện doanh nghiệp phá sản, sống chết ra
sao và bao nhiêu còn ngáp ngáp, cũng chẳng ai biết!
Cuộc khảo sát
hồi Tháng Sáu vừa qua của Tổng cục Thống kê có cho thấy một phần của sự
quái đản ấy. Có 9.331 doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và có vốn nước
ngoài được phỏng vấn về tình hình kinh doanh trong 15 tháng trước, tính
đến trung tuần Tháng Năm vừa qua. Kết quả là 8,4% trong số này đã phá
sản hay âm thầm đóng cửa. Bị thiệt hại nhất là tư doanh với tỷ lệ xập
tiệm là hơn 9%. Lý do nghiêm trọng nhất là bị lỗ vì kém năng suất, thiếu
vốn kinh doanh và không thể cạnh tranh nổi! Đấy chỉ là một "dân số mẫu"
của thống kê.
Thực tế thì
trong 623 ngàn doanh nghiệp có khai báo vào cuối năm 2011, có hơn 200
ngàn cơ sở đã tiêu vong. Còn lại, "chết lâm sàng" như người ta nói thì
chẳng ai rõ là có bao nhiêu.
Phải chăng "chết lâm sàng" là... bệnh hay lây và đã lên tới não bộ của đảng?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét