Thứ Ba, 5 tháng 11, 2019

Nga ngố 1


Tam Tran
QUÍ TỘC NGA
Cuối thế kỷ 17 trong hơn một năm 1697-1698, nhà cải cách vĩ đại Nga Piotr Đại Đế đã dẫn một phái đoàn hơn 250 người sang Châu Âu thăm viếng và học hỏi. Phái đoàn đã học hỏi kỹ thuật hàng hải, đóng tầu thuyền, công nghiệp khai khoáng và chế tạo. Kỹ thuật xây dựng đô thị, tổ chức bộ máy chính quyền các cấp, quản lý đô thị. Cũng như hệ thống giáo dục, trường đại học, y tế, nghiên cứu khoa học. Nhưng hàng đầu là kỹ thuật quân sự, xây dựng quân đội và hải quân.
Piotr Đại Đế có sang Anh để học kinh nghiệm xây dựng hải quân, xây dựng hạm đội. Trong thời gian lưu trú ở Anh, Piotr Đại Đế đã đến thăm Nghị Viện Anh. Nhưng sinh hoạt nghị viện với những cuộc tranh luận triền miên không có hồi kết, không hề làm ông xúc động mà chỉ làm ông bực mình, vì cho chúng là vô bổ. Từ đó, Piotr Đại Đế không bao giờ quan tâm đến cái văn hóa chính trị “vớ vẩn” đó nữa.
Kết quả là nước Nga không học phần Software mà chỉ học phần Hardware từ Châu Âu để xây dựng Đế quốc quân chủ chuyên chế mạnh cạnh tranh với Châu Âu. Về phương diện này Piotr Đại Đế và hậu duệ của ông đã rất thành công. Nước Nga trở thành nước Quân chủ Chuyên chế tuyệt đối, một Đế quốc hùng mạnh rộng lớn trải khắp Á Âu từ biến Baltic đến Thái Bình Dương, từ Bắc Băng Dương đến Hắc Hải, có ảnh hưởng to lớn đến Châu Âu và toàn thế giới. Nhưng không có Hiến pháp và không có Nghị Viện cho đến 1905.
SỰ HÌNH THÀNH TẦNG LỚP QUÍ TỘC NGA
Để tổ chức bộ máy nhà nước và quân đội hiện đại, Piotr Đại Đế đã tìm cách đào tạo quí tộc Nga, bằng cách gửi họ sang Châu Âu học, nhằm xây dựng đội ngũ nòng cốt cho nhà nước quân chủ chuyên chế của mình. Đồng thời, để thực hiện ý đồ này, Piotr Đại Đế đã dùng mọi thủ đoạn “cưỡng bức” các lãnh chúa nhà quê Nga phải học hành, phải thay đổi nếp sống, phải tiếp thu phong cách ứng xử và lời ăn tiếng theo kiểu Châu Âu để trở thành quí tộc.
Để thực hiện chương trình quí tộc hóa lãnh chúa nhà quê, ông đã tích cực đưa lối sống của quí tộc Châu Âu vào Nga. Trước hết, ông thành lập các trường đại học ở St. Petersburg và Moskva, mời các giáo sư danh tiếng Châu Âu sang giảng dậy. Còn các thanh niên quí tộc Nga từ đó mất quyền từ chối đi học. Ông cũng xây dựng công sở, thư viện và nhà hát ca nhạc kịch cổ điển theo kiểu Châu Âu.
Ngoài ra, ông thường xuyên tổ chức các buổi vũ hội, hòa nhạc kiểu Châu Âu, để quí tộc Nga và quí tộc Châu Âu gặp gỡ giao lưu. Những buổi dạ hội này, ban đầu được tổ chức ở Hoàng Cung, về sau dần dần sinh hoạt văn hóa này, đã trở thành một hoạt động thường kỳ ở các dinh thự quí tộc.
Đồng thời, Piotr Đại Đế cũng bắt các cô các bà phải thay đổi hoàn toàn phong cách ăn mặc truyền thống. Thay vì saraphan, họ phải chuyển sang mặc váy phồng, bó eo, hở cổ, hở ngực theo đúng phong cách thời trang quí tộc Châu Âu khi đi dự dạ tiệc, vũ hội và ngay ở nhà trong các buổi tiếp tân và hòa nhạc gia đình.
Ông bắt họ ăn bằng dao, dĩa thay cho thìa gỗ, uống rượu bằng ly thay cho bát. Bắt họ bỏ tiền thuê gia sư người Pháp dạy tiếng Pháp cho mình và con cháu. Ông còn mời các chuyên gia giáo dục hàng đầu từ Pháp sang St. Petersburg và Moskva, để mở trường đào tạo phong cách quí tộc.
Ở những trường này, người ta dạy tiếng Pháp (cho ai cần), dạy khiêu vũ và các điệu nhảy vũ hội cung đình, dạy phong cách đi đứng, dạy cầm ly, dao thìa dĩa đúng cách, dạy qui tắc ứng xử và dạy ăn nói thanh lịch cho các quí cô, quí cậu quí tộc. Nhưng có lẽ “dã man” nhất, là ông ép họ phải giao tiếp bằng tiếng Pháp không chỉ với người nước ngoài, mà cả với nhau ở mọi nơi, mọi chỗ.
Đối với đàn ông quí tộc nhà quê Nga, ông còn đối xử nghiêm khắc hơn rất nhiều. Trước hết, ông bắt đám này phải cạo râu và cắt tóc (không tuân lệnh có thể bị phạt đánh bằng gậy đến chết), phải đội tóc giả rắc phấn và mặc quần chẽn, áo bó tay đi dự thiết triều, đến công sở, đến vũ hội và cả nơi công cộng.
Nhưng quan trọng nhất, là ông mở các trường quân sự, và đàn ông quí tộc Nga phải trải qua các khóa huấn luyện quân sự bắt buộc, để có kỹ năng cưỡi ngựa và biết sử dụng thành thục mọi loại vũ khí, cũng như các chiến kỹ thuật tác chiến. Đồng thời, quí tộc Nga bắt buộc phải sắn sàng phục vụ trong quân ngũ, bất cứ khi nào nhà nước triệu tập.
Từ đó, quí tộc Nga đã trở thành thành phần cốt lõi của đội ngũ sĩ quan chuyên nghiệp quân đội Nga và bộ máy chính quyền Sa Hoàng. Kết quả là tuy chậm hơn Tây Âu (Pháp, Anh, Tây Ban Nha …) độ 500 năm và Trung Âu (Đức, Áo, Hung, Ba Lan …) độ 300 năm. Nhưng cuối cùng, ở nước Nga cũng đã xuất hiện một tầng lớp quí tộc có học khá đông đảo theo kiểu Châu Âu.
Về nghĩa vụ và quyền lợi, những người quí tộc có nghĩa vụ phục vụ trong quân đội, trong bộ máy của Sa Hoàng. Tùy thuộc công lao phục vụ, họ có thể được thăng tước hiệu qúi tộc, ban thưởng thêm điền trang thái ấp và nông nô.
Tuy nhiên sau khi được Sa Hoàng ban thưởng, những điền trang thái ấp này trở thành sở hữu cá nhân của các nhà quí tộc, Sa Hoàng mất quyền can thiệp. Con cái quí tộc mặc nhiên được hưởng quyền thừa kế vĩnh viễn tước hiệu quí tộc, dinh thự và điền trang thái ấp. Những người thuộc các tầng lớp xã hội khác, nếu có công lao đặc biệt, cũng có thể được Sa Hoàng ban tước hiệu và điền trang thái ấp, để gia nhập tầng lớp quí tộc.
Những nhà quí tộc phạm tội, cũng như ở Tây Âu, việc điều tra và phán xử tội trạng của họ do Hội đồng Nguyên lão Quí tộc đảm nhận. Phán quyết cuối cùng thuộc về Sa Hoàng. Như vậy, quí tộc Nga rất gần với chuẩn quí tộc Châu Âu về mọi phương diên, kể cả kinh tế. Đúng hơn là nhờ có thu nhập từ điền trang thái ấp, quí tộc Nga độc lập với nhà nước về phương diện kinh tế và thu nhập. Họ có thể làm nghề tự do, có thể sống được không phụ thuộc vào lương bổng của chế độ Sa Hoàng.
SỰ HÌNH THÀNH CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA QUÍ TỘC NGA
Trong bối cảnh tầng lớp quí tộc được định hướng hình thành và khuyến khích phát triển, một nền văn hóa ứng xử quí tộc theo chuẩn mực Châu Âu cũng nhanh chóng hình thành. Trước hết liên quan đến giá trị cốt lõi của nhà quí tộc là vấn đề danh dự và phẩm giá. Để giải quyết mâu thuẫn giữa quí tộc với nhau, những phương tiện truyền thống trước đây được ưa dùng như nắm đấm, rìu bổ củi, cuốc thuổng và gậy gộc, bị Hội đồng Quí tộc cấm tuyệt đối.
Mọi mâu thuẫn giữa quí tộc liên quan đến danh dự, nhất là của các quí bà và quí cô, phải giải quyết bằng thách đấu (duel) bằng gươm hoặc súng. Và nhất định phải có chiến thư, có người làm chứng. Những hành vi như gửi thư nặc danh, cắn trộm, đánh lén, phục kích hay đánh hội đồng như trước đây, bị tích cực lên án, khinh bỉ và tẩy chay.
Như vậy, lãnh chúa nhà quê Nga bị bắt buộc phải trở thành quí tộc có học, theo đúng chuẩn mực Châu Âu. Danh dự, sự cứng cỏi và tự tôn, lòng trung thành với nghĩa vụ quí tộc, với Sa Hoàng, với lời tuyên thệ sỹ quan và đức tin Kito Chính thống giáo, là những phẩm chất tiên quyết bắt buộc phải có của một nhà quí tộc.
Ngoài ra, sự trung thực và thẳng thắn, chính trực và công bằng, tiết chế và độ lượng, khoan dung và chuộng lẽ phải, cũng là những phẩm chất mà người quí tộc cần phải có. Và tất nhiên, người quí tộc phải cao thượng và có tinh thần hiệp sỹ. Nghĩa là trong chiến trận, hay ở những tình huống nguy hiểm, họ phải là những người xông lên hàng đầu và rút lui cuối cùng.
Trong các cuộc chiến tranh Châu Âu, đội ngũ sỹ quan quí tộc Nga nổi tiếng là biết bảo toàn danh dự sỹ quan, dũng cảm đến liều lĩnh, kiên cường, thiện chiến và giỏi chịu đựng.
Tóm lại, quí tộc Nga tuân thủ một bộ qui tắc ứng xử, tương tự như qui tắc ứng xử quí tộc Anh hay là Bushido của samurai Nhật. Công tước Andrei Bolkonsky, nữ Bá tước Natalia Rostova trong tác phẩm Chiến tranh và Hòa bình, hay nữ Bá tước Anna Karenina, Bá tước Alexey Vronsky trong tiểu thuyết cùng tên, những nhân vật gần gũi với chúng ta qua văn học Nga, chính là những hình mẫu quí tộc Nga tiêu biểu.
Thời Piotr Đại Đế (1672-1725) và Catherine II (1729-1796), là giai đoạn thành hình và trưởng thành của quí tộc Nga. Trong thời kỳ đó, đối với quí tộc Nga, việc được phục vụ chế độ quân chủ chuyên chế là ý nghĩa, là giá trị lớn nhất trong cuộc sống. Ho không băn khoăn nhiều về vai trò xã hội của mình, về nhân dân, nhất là nông nô Nga. Ngược lại, họ vẫn coi việc bóc lột nông nô là một quyền thiêng liêng tự nhiên. Nghĩa là họ mới là tinh hoa xã hội danh định, chứ chưa phải tinh hoa thực sự dẫn dắt xã hội, và dù rất có học, họ hoàn toàn chưa có thể được coi là tinh hoa trí thức.
VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC QUÍ TỘC VÀ TRÍ THỨC NGA
Đầu thế kỷ 19, đã diễn ra một sự thay đổi nhận thức to lớn, một sự “bừng tỉnh” của quí tộc Nga. Trước hết, là ở những nhà quí tộc trẻ tuổi, là sỹ quan quân đội Nga tham gia chiến tranh Vệ Quốc 1812 chống Napoleon. Từ Paris, từ nước Pháp cách mạng, nơi chế độ nông nô đã được bãi bỏ trước đó vài thế kỷ, nơi Hiến pháp và tinh thần Cộng Hòa đang trở thành những giá trị mới và là nền tảng của xã hội . Nơi dân quyền và TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI không chỉ là một khẩu hiệu. Họ đã trở về nước Nga với một nhận thức hoàn toàn khác.
Những nhà quí tộc trẻ tuổi này đã trở thành những người tích cực phản biện chế độ chế độ nông nô tàn bạo lạc hậu, chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối Sa Hoàng tăm tối lúc đó ở Nga. Họ bắt đầu cổ súy cho việc bãi bỏ chế độ nông nô, cho việc thiết lập chế độ Quân chủ Lập hiến hay đi xa hơn là nền Cộng Hòa. Họ là những người mang tư tưởng của các nhà Khai sáng Châu Âu về Nga. Trên thực tế, họ đã trở thành giới tinh hoa trí thức Nga lứa đầu tiên.
Đặc điểm chính của tầng lớp quí tộc tinh hoa trí thức này, là họ có tư duy độc lập, có nhận thức đúng về lẽ phải và qui luật khách quan phát triển xã hội. Họ có ảnh hưởng tư tưởng đáng kể trong xã hội, về phương diện khai sáng và nâng cao dân trí. Họ luôn đứng về phía lẽ phải và tìm cách thay đổi xã hội. Một số người trong số họ, là bạn của nhà thơ Nga vĩ đại Alexander Pushkin, một nhà quí tộc Nga tiêu biểu.
Những nhà trí thức quí tộc này đã khởi xướng cuộc Cách Mạng Tháng Chạp 1825, bằng cuộc binh biến chống lại chế độ Sa Hoàng trên Quảng trường Thượng Viện ở St. Petersburg. Cuộc binh biến bị đàn áp khốc liệt, nhiều người bị giết, nhiều người khác bị bắt giữ, bị kết án và xử tử. Hàng trăm người tham gia binh biến, đã bị tuyên án đầy biệt xứ đi Siberia băng giá.
Phần lớn những người vợ và các vị hôn thê của các nhà cách mạng Tháng Chạp này, đã vĩnh viễn rời bỏ St. Petersburg theo chồng đi đày biệt xứ và chia sẻ mọi gian khổ với họ ở Siberia. Đây là một trong những câu chuyện bi tráng và tiêu biểu nhất về phẩm chất kiên cường của phụ nữ quí tộc Nga. Vợ các nhà cách mạng Tháng Chạp đã trở thành thần tượng của nhiều thế hệ người Nga, một biểu tượng tinh thần của trí thức và một tượng đài trong văn hóa Nga.
Cùng lúc đó, nhiều nhà trí thức quí tộc Nga khác đã tìm cách thay đổi xã hội theo một đường lối khác. Họ tích cực đưa tư tưởng Khai sáng Châu Âu vào văn học, văn hóa nghệ thuật, âm nhạc hội họa, vào khoa học kỹ thuật và kinh tế Nga, tạo nên một sự phát triển thần kỳ.
Từ giữa thế kỷ 19, và đặc biệt sau khi chế độ nông nô được bãi bỏ 1861, ở nước Nga tầng lớp tinh hoa trí thức phát triển nhanh chóng, nhờ được bổ xung một lực lượng hùng hậu từ các giai tầng xã hội khác ở Nga: viên chức, tăng lữ, thương nhân, nông dân và nông nô cũ. Cùng với trí thức quí tộc, họ tạo một tầng lớp tinh hoa trí thức xuất sắc khá đông đảo. Những người đã tạo nên Thế Kỷ Vàng và Bạc trong văn học Nga.
Ở Nga cuối thế kỷ 19, đầu 20, tầng lớp tinh hoa trí thức Nga trở thành động lực chính và đóng vai trò dẫn dắt sự phát triển thần kỳ của nước Nga trong mọi lĩnh vực, từ khoa học kỹ thuật đến kinh tế, từ văn hóa nghệ thuật, âm nhạc hội họa, balett đến cả cải cách xã hội, làm Châu Âu (trước hết là nước Đức) phải kinh ngạc, e dè và tìm mọi cách kìm hãm.
Tôi xin phép chỉ kể đến một vài cái tên tri thức quí tộc tiêu biểu nhất như Lev Tolstoy, Fyodor Dostoyevsky (văn học), Piotr Tchaikovsky, Igor Stravinsky (âm nhạc), Ilya Repin, Ivan Aivazovsky (hội họa), Dmitri Mendeleev, Ivan Pavlov (khoa học), Georgi Plekhanov (kinh tế), Sergei Witte, Piotr Stolypin (cải cách kinh tế), Mikhail Bakunin, Piotr Kropotkin (tư tưởng, cách mạng).
Trong một thời gian dài giới tinh hoa trí thức Nga, bao gồm cả tinh hoa trí thức quí tộc đã rất cố gắng và họ đã thành công trong việc hình thành ở xã hội Nga một nhận thức sâu sắc, về việc cần thiết phải tiến hành cách mạng để thay đổi chế độ Sa Hoàng. Họ thực hiện điều này bằng các hình tượng và cảm xúc nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, bằng những bài chính luận về những bế tắc chính trị xã hội và tư tưởng đạo đức trong xã hội Nga.
Giới tinh hoa trí thức Nga đã thành lập các đảng phái, các tổ chức xã hội chính trị đối lập trong chế đố Sa Hoàng, và là thành phần chủ đạo trong các tổ chức này. Năm 1917, khi nước Nga thất bại trong Thế chiến Thứ nhất, giới tinh hoa trí thức Nga đã tổ chức và lãnh đạo các cuộc cách mạng Tháng Hai và Tháng Mười năm 1917 lật đổ chính quyền Sa Hoàng.
Cũng chính họ đã nhiệt tình, say sưa thuyết phục công chúng rộng rãi Nga tiếp nhận cách mạng. Để rồi sau đó, phần lớn giới tinh hoa trí thức (trước hết là trí thức quí tộc) Nga đã vĩnh viễn đi vào “hậu trường lịch sử” hoặc rời khỏi nước Nga sau Nội chiến (1917-1922) và trong các cuộc đấu tranh giai cấp dưới chế độ chuyên chính vô sản thời kỳ Xô Viết.
PS. Trong thời kỳ Xô Viết, tuy đã biến mất như một tầng lớp, nhưng tinh thần và truyền thống của trí thức quí tộc Nga, trước hết về phương diện danh dự, phẩm giá và trách nhiệm xã hội vẫn được bảo tồn ở một số cá nhân trí thức (không nhất thiết xuất thân quí tộc) trong nhiều lĩnh vực từ khoa học kỹ thuật đến văn hóa nghệ thuật.
Trong số này có những cá nhân trí thức tiêu biểu như nhà văn Alexander Solzhenitsyn, hay nhà khoa học Andrei Sakharop, những người đã trở thành lãnh tụ tinh thần, tiêu biểu cho chuẩn mực tinh thần đạo đức xã hội, giống như Lev Tolstoy thời kỳ nước Nga Sa Hoàng.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, ở nước Nga mới nhiều hội đoàn bao gồm hậu duệ các dòng họ quí tộc Nga đã được thành lập, nhưng chẳng hề có một ảnh hưởng xã hội đáng kể trong bất cứ lĩnh vực nào.
Đồng thời ở nước Nga hôm nay cũng không có một khuôn mặt nào có thể coi là lãnh tụ tinh thần tiêu biểu cho chuẩn mực tinh thần đạo đức xã hội, giống như Lev Tolstoy thời kỳ nước Nga Sa Hoàng, hay Alexander Solzhenitsyn và Andrei Sakharop thời kỳ Xô Viết. Cũng khác với thời kỳ nước Nga Xô Viết, giới tinh hoa Nga ngày nay chẳng có gì để nói về quyền lực mềm với thế giới.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét