Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2012

LỖI LẬP LUẬN (FALLACY)




MÔ TẢ LỖI LẬP LUẬN (FALLACY)

Để hiểu thế nào là một lỗi lập luận/ lỗi do suy luận sai (fallacy), người ta phải hiểu lập luận (argument) nghĩa là gì. Nói rất ngắn gọn, một lập luận bao gồm ít nhất một tiền đề (premise) – và một kết luận (conclusion). Tiền đề là một phát biểu/ thông báo – một câu hoặc đúng hoặc sai (statement, từ đây gọi là “phát biểu”) – được cung cấp để bổ trợ cho tuyên bố (claim) được đưa ra – tức là kết luận (cũng là một câu hoặc sai hoặc đúng).

Có hai loại lập luận chính: diễn dịch và quy nạp. Lập luận diễn dịch là lập luận mà trong đó tiền đề cung cấp (hoặc tỏ ra cung cấp) sự bổ trợ đầy đủ cho kết luận. Lập luận quy nạp là lập luận mà trong đó tiền đề cung cấp (hoặc tỏ ra cung cấp) một mức độ bổ trợ nào đó (nhưng không đầy đủ) cho kết luận. Nếu các tiền đề thật sự bổ trợ được ở mức độ cần thiết cho kết luận, thì khi đó tiền đề đó tốt. Một lập luận diễn dịch tốt được xem như một lập luận có giá trị hiệu lực và là lập luận mà trong đó nếu tất cả các tiền đề của nó đều đúng, thì kết luận của nó sẽ đúng. Nếu toàn bộ lập luận đều có giá trị hiệu lực và quả thật có những tiền đề hoàn toàn đúng, thì nó được gọi là lập luận vững chắc. Nếu nó không có giá trị hiệu lực hoặc nó có ít nhất một tiền đề sai, thì nó không vững chắc nữa. Một lập luận quy nạp được gọi là lập luận quy nạp mạnh (hoặc “vững chắc”). Nó sẽ là như thế nếu tất cả các tiền đề đều đúng, và kết luận chắc chắn là đúng.

Lỗi lập luận, nói rất khái quát, là một lỗi so suy luận sai. Lỗi này đa dạng, từ một cái sai so với thực tế (factual error), nghĩa là chỉ đơn giản là sai về dữ kiện. Cụ thể hơn, lỗi lập luận là “lập luận” mà trong đó tiền đề đưa ra cho kết luận không đủ bổ trợ cho kết luận. Lỗi diễn dịch là lập luận diễn dịch không có giá trị hiệu lực (có thể là nó có tất cả các tiền đều đúng mà vẫn bị kết luận sai). Lỗi quy nạp ít tính hình thức hơn lỗi diễn dịch. Nó chỉ đơn giản là “lập luận” mà có vẻ giống lập luận quy nạp, nhưng các giả thiết không đủ bổ trợ cho kết luận. Trong trường hợp ấy, ngay cả nếu tiền đề có đúng, kết luận cũng không chắc đã đúng.

Ví dụ về lỗi lập luận

1. Lập luận quy nạp

Tiền đề 1: Hầu hết mèo Mỹ là mèo nuôi trong nhà.
Tiền đề 2: Bill là một con mèo Mỹ
Kết luận: Bill là mèo nuôi trong nhà.

2. Sai so với thực tế

Columbus là thủ đô của Mỹ.

3. Lỗi diễn dịch

Tiền đề 1: Nếu Portland là thủ phủ của Maine thì nó nằm ở Maine.
Tiền đề 2: Portland nằm ở Maine.
Kết luận: Portland là thủ phủ của Maine.

(Portland nằm ở Maine, nhưng Augusta mới là thủ phủ. Tuy nhiên, Portland là thành phố lớn nhất ở Maine.)

4. Lỗi quy nạp

Tiền đề 1: Vừa tới Ohio, tôi đã thấy một con sóc trắng.
Kết luận: Tất cả sóc Ohio đều màu trắng.

(Trong khi có rất nhiều, rất nhiều sóc ở Ohio, sóc màu trắng cực hiếm.)

THỐNG NHẤT THUẬT NGỮ

- Fallacy dịch là lỗi lập luận, hoặc lỗi do suy luận; đây là một khái niệm không thông dụng lắm, và trong tiếng Anh cũng được dùng với nhiều nghĩa. Nghĩa chủ yếu của nó là: lỗi do suy luận sai, sai logic.
Fallacious dịch là lập luận sai, lỗi lập luận, sai logic, phi logic.
Sophisticate dịch là ngụy biện (động từ: sophisticate; danh từ: sophistication).
- Fallacy là cái sai do suy luận sai mà ra chứ không phải bản thân việc cố tình suy luận sai, cố tình sophisticate.
Argument dịch là luận cứ
Argumentation dịch là lập luận.
Premisetiền đề (trong triết học và ngôn ngữ học đều thống nhất như vậy).
Supposition dịch là giả thuyết (danh từ). Suppose dịch là giả thiết (động từ). Chẳng hạn, “tôi giả thiết rằng…” và “đây là một giả thuyết”.
Statement trong logic học thường được dịch là phát biểu ghi nhận, hoặc nói gọn là phát biểu.
Claim dịch là ý kiến, hoặc luận cứ, hoặc phát biểu.
Support dịch là bổ trợ, hỗ trợ.
Good nhiều khi dịch là khả quan nghe xuôi hơn là tốt một chút.
Valid trong các tài liệu triết học và logic học thường được dịch là có giá trị hiệu lực, còn invalidkhông có giá trị hiệu lực.
Formal trong logic học có nghĩa là tính hình thức, ví dụ: “An inductive fallacy is less formal than a deductive fallacy” thì nên dịch là Một lỗi suy luận quy nạp ít mang tính hình thức hơn một lỗi suy luận diễn dịch, vì trong logic học, phép quy nạp lại mang tính hình thức hơn là phép diễn dịch. 
- Ngụy biện: cố ý dùng lý lẽ bề ngoài có vẻ đúng nhưng thật ra là sai, để rút ra những kết luận không đúng sự thật
- Bao biện: chống chế nhằm thanh minh, giải thích việc ko đúng. Bao biện là cấp độ thấp hơn của ngụy biện. Người ta nói: “nghệ thuật ngụy biện”, “phương pháp bao biện”.
- Tư biện: nhấn mạnh đến sự giả trá của người nói

0 nhận xét:

Đăng nhận xét