This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2019

Tớ Chấp CMN Luôn!

 Đinh Tấn Lực

Chống chủ nghĩa cải lương
Làm theo kinh sách dạy
Nhưng có nên múa gậy
Theo chủ nghĩa tuồng chèo?
(Vũ Cận – Phân Vân – tập thơ Mưa Nguồn – Hà Nội, Xuân ’62)


Đừng nghĩ rằng lâu nay không thấy bóng dáng Sinh Tử Lệnh xuất hiện là tình hình mạng đột nhiên thông thoáng, vô chính phủ!

Chẳng phải khoe, chứ nói thiệt, mấy chiêu này lợi hại hơn nhiều…

Chớ sao? Tất nhiên phải có những trùng khớp “ngẫu nhiên” của các bản tin sóng đôi triệt tiêu lẫn nhau:
  • Tàu sợ Phi kiện lên ITLOS & bản tin cha ruột hiếp 2 con gái.
  • Campuchia bỏ lệnh cấm biểu tình & Ngọc Trinh mặc bikini trong quán.
  • Cấm xuất cảnh nhà báo được mời tham dự UPR & các cuộc biểu tình căng thẳng ở Bangkok.
  • VN bị TQ đe dọa tại Lào/Cambốt? Không sao, đã có tin bà cụ 80 tuổi bị hiếp dâm.
  • Phiên tòa phúc thẩm Lê Quốc Quân & bản tin đột tử của 1 chú ngựa thồ đô.
  • Quảng trường Độc Lập ở Kiev & chiếc cầu treo Chu Va ở Lai Châu.
  • Căn biệt thự Bến Tre của quan tổng thanh tra & phòng biệt giam thường dân ở Lấp Vò, Đồng Tháp. “Bốn năm làm chánh thanh tra, Bằng bốn thế kỷ tăng ca may giày” (ĐTL).

Chớ sao? Phải sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo! Ta đã từng chỉ đạo xài vật chứng condom, dùng án trốn thuế cho thuê nhà/án quan hệ nam nữ vị thành niên/án trốn thuế doanh nghiệp… thì sá gì chuyện tạm giam để truy tố với tội danh gây rối trật tự giao thông?


Chớ sao? Quá độ là quá trình đi từ lý luận đỉnh cao toàn diện …
  • Nạn cháy xe do bởi nguyên nhân chính là …lửa!
  • Con nít chết hàng loạt, chính yếu là là do lỗi của thuốc vắc-xin!
  • Cầu treo đứt cáp neo là do bởi …người khiêng quan tài đi trên cầu quá nhanh! “Từ nay vác nặng qua cầu. Phải đi thật chậm, kẻo cầu nó … rơi!” (Vũ Thị Phương Anh).
  • Ta chưa cần luật biểu tình là vì …dân trí thấp!
  • Bằng giả ư? Đã có bộ máy nhà nước bao thầu!
  • Cambodia chế xe hơi Angkor chạy điện thì sao bằng VN ta chế tàu ngầm vỏ composite?
  • Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước… thì giao cho tư nhân sao được?
  • Tức, phải hiểu, đa phần nhân dân còn ở lều bạt là bởi …chưa có em nuôi xây cho biệt thự!
  • Muốn nhìn góc khác? Thì đây, góc tù!

Từ đó tiến nhanh tiến mạnh lên biện pháp đỉnh cao toàn phương vị:
  • Công chức lề mề? Đã có chỉ thị 17 cấm rượu buổi trưa, cấm cà phê la cà buổi sáng!
  • Giả dạng côn đồ chận đường hành hung đổ máu những ai kêu đòi dân chủ.
  • Giật băng Kính Viếng trên vòng hoa của nhân sĩ bỏ đảng trước khi hấp hối.
  • Cưa đá & Bắn loa vào mặt nhân dân tưởng niệm tử sĩ bảo vệ Hoàng Sa.
  • Múa đôi điệu vũ “TQ cha cha” choán chỗ nhân dân tưởng niệm liệt sĩ chiến tranh biên giới.
  • Tịch thu hộ chiếu & Cấm xuất cảnh những công dân dám mở miệng.
  • Đánh đổ máu hai công dân trên đường đến sứ quán Úc hội đàm.
  • Cắt nước sinh hoạt, sau khi bị tang quyến từ chối không cho làm trưởng ban tang lễ.

Rồi sao nữa?
TPP à? UPR à? HRW à? RSF à?…
Chấp tất!
Hãy nhớ cho rõ, Burma có được ngày nay là nhờ ai “cố vấn và khích lệ”?
Khoan nói là một không gian mênh mông như quảng trường Độc Lập ở Kiev, ngày nào dân Việt chưa gõ nồi gõ chảo gọi nhau bước ra khỏi nhà đứng chật được một con đường, mà lại còn săm soi xầm xì nhau, thì ngày đó, nói thiệt, X này chấp cmn cái đám TPP lẫn UPR kia luôn. Thề!
Trong khi chờ đợi, hãy nâng cốc chúc mừng Ủy ban Quốc gia Quyết liệt Đổi mới Giáo dục cho Ngang tầm Thời đại, nào!
Điếc thường không sợ súng
Câu ngạn ngữ nghìn xưa
Riêng súng khi lên đạn
Chưa sợ điếc bao giờ!
(Vũ Cận – Nghe Hộ – tập thơ Mưa Nguồn – Láng ’91)

28-02-2014 – Tròn 23 năm Kuwait thoát ách đô hộ của Saddam Hussein.
Blogger Đinh Tấn Lực

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2019

Hoa - Mỹ


MỘT VÀI SỐ LIỆU, SUY NGHĨ VỀ PHÁT TRIỂN AI CỦA MỸ VÀ CHINA
LỜI GIỚI THIỆU
Chào các bạn thân mến. Phát triển Trí tuệ nhân tạo AI (Artificial Intelligence), là yếu tố cốt lõi trong cuộc chạy đua CMCN 4.0. Đầu năm 2016, lần đầu tiên chương trình AlphaGo, do Google DeepMind phát triển đã giành chiến thắng trong trận đấu với nhà vô địch cờ vây (Go) châu Âu Fan Hui (Phiền Huy). Ít lâu sau AlphaGo đã đánh bại cả Lee Sedol người Hàn Quốc, một trong những kỳ thủ cờ vây hay nhất thế giới.
Cuộc đấu này đã được truyền hình trực tuyến, và làm giới tinh hoa kỹ thuật công nghệ, kinh tế và chính trị cả thế giới xúc động mạnh. Theo truyền thông China, đó chính là “cú huých” bắt các nhà lãnh đạo China phải suy nghĩ nghiêm túc về việc phát triển AI, và sau đó đưa việc phát triển AI vào nhóm những nhiệm vụ chiến lược quốc gia ưu tiên hàng đầu. Từ đó, hàng loạt chương trình, dự án nghiên cứu phát triển và triển khai AI của China được khởi động. Cuộc chạy đua phát triển AI giữa Mỹ và China chính thức bắt đầu.
Vào cuối mùa hè năm 2018, khi chỉnh sửa lần cuối bản thảo cuốn sách “AI siêu quyền lực: China, Thung lũng Silicon và Trật tự thế giới mới (AI Super Powers: China, Silicon Valley, and the New World Order)”, hiện đã trở thành cuốn sách được trích dẫn nhiều nhất về cuộc đua AI toàn thế giới, tác giả Lý Khai Phục (Kai Fu-Lee) người Đài Loan, một nhà đầu tư AI nổi tiếng toàn cầu, đã đưa ra một nhận định gây “địa chấn”:
“China sẽ sớm bắt kịp và vượt Mỹ trong việc phát triển và triển khai AI (China will soon match or even overtake the United States in developing and deploying artificial intelligence)”.
Khi quyển sách ra đời mùa thu năm 2018, phần lớn các chuyên gia hàng đầu thế giới đều thừa nhận, là trong cuộc chơi phát triển AI, sẽ chỉ còn lại 2 ông lớn là Mỹ và China. Nhưng rất ít người tin rằng, Mỹ cho phép China qua mặt mình. Tuy nhiên, tình hình hiện nay đã có nhiều thay đổi. Tôi xin phép giới thiệu một vài tổng kết, nhận định của các chuyên gia Nga, China và Mỹ về tình trạng hiện thời của cuộc chạy đua AI giữa Mỹ và China.
Trước hết là một vài số liệu mới nhất về phát triển AI (Artificial Intelligence), thể hiện qua những thành tựu trong một số lĩnh vực chính bao gồm:
Thứ nhất, trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản tạo dựng cơ sở lý thuyết cho sự tiến bộ trong lĩnh vực AI. Một điều chúng ta có thể tham chiếu qua số lượng và chất lượng các báo cáo khoa học, trình bầy tại những hội thảo khoa học uy tín nhất trong lĩnh vực này.
Thứ hai, trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, tạo cơ sở cho việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và xây dựng những nền tảng mới của AI. Điều này có thể đánh giá qua số sáng chế công nghệ được đăng ký trong lĩnh vực AI.
Thứ ba, là số chuyên gia trong lĩnh vực AI (AI talants), và thứ tư là số công ty làm việc trong lĩnh vực này.
TƯƠNG QUAN HIỆN NAY
Cuối 01/2019, trong Hội thảo hàng năm lần thứ 33 của Hiệp hội vì Sự tiến bộ của AI (Association for the Advancement of Artificial Intelligence –AAAI), một trong những hội thảo khoa học uy tín nhất trong lĩnh vực AI, tổng cộng 7745 báo cáo được trình bầy (so với 3800 và 2590 tương ứng của các khóa 2 năm 2018, 2017 trước đó).
Số báo cáo tiêu biểu được tuyển chọn là 1500 (so với 933 và 638 tương ứng của các khóa 2 năm 2018, 2017 trước đó). Trong số 1500 báo cáo tuyển chọn, các nhà khoa học China và Mỹ có 382 và 264 báo cáo tương ứng. Số lượng báo cáo tuyển chọn đối với các nước tham gia khác không vượt quá con số vài chục.
Như vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản về AI, China có thể đã bắt đầu vượt Mỹ. Tuy rằng, chất lượng nghiên cứu có thể Mỹ vẫn dẫn đầu. Trong cuộc hội thảo lần thứ 33 về AI vừa qua, số báo cáo của China được tiếp nhận là 16%, so với con số này của Mỹ là 21%. Đồng thời có thể nới rằng, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản về AI, Mỹ và China là hai thủ lĩnh bỏ xa các tay chơi khác
BÁO CÁO WIPO VỀ XU HƯỜNG CÔNG NGHỆ 2019: AI
Vào ngày 31/01/2019, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) đã công bố một báo cáo đặc biệt 156 trang “Về tình trạng các xu hướng 2019: lĩnh vực AI”. Đây là báo cáo đầu tiên, phân tích không phải ý kiến và đánh giá chủ quan của các chuyên gia, cũng không phải là một bảng tổng kết các chỉ số tài chính, được coi là đặc trưng cho thị trường AI, do các nhà phân tích tổng hợp từ hàng chục thị trường dọc và ngang.
Lần đầu tiên, hành trình của 340 nghìn sáng chế đã cấp bằng trong lĩnh vực AI, và 1.6 triệu ấn phẩm công bố gắn kết với chúng được phân tích. Đồng thời, việc phân tích được thực hiện không phải chung cho tất cả mọi thứ về AI, mà được tách thành ba phần (Hình 1):
- Phương pháp và công nghệ AI (AI techniques)
- Những chức năng liên quan của AI (AI functional applications)
- Các lĩnh vực ứng dụng AI (AI application fields)
Một trong những phát hiện chính của báo cáo này, là trong khu vực các sáng chế liên quan đến AI, các trường đại học đóng góp đáng kể và các trường Trung Quốc đang dẫn đầu (Hình 2).
Trong đó các viện, trường Trung Quốc chiếm 7 trong số 20 viện, trường hàng đầu thế giới về sáng chế AI, cũng như 10 trong số 20 cơ quan nghiên cứu hàn lâm hàng đầu về công bố khoa học trong lĩnh vực AI.
Các trung tâm nghiên cứu hàn lâm của Trung Quốc đặc biệt mạnh về học sâu (deep learning) của AI. Theo báo cáo này, Viện Hàn lâm Khoa học China dẫn đầu với hơn 2.500 bằng sáng chế và hơn 20.000 công bố khoa học về tất cả các chủ đề liên quan đến AI. Trong đó riêng lĩnh vực học sâu có 235 sáng chế đã được cấp bằng. Trong 5 năm qua, số bằng sáng chế của China tăng 20% năm, tốc độ tăng trưởng vượt tất cả các quốc gia khác, kể cả Mỹ.
Tóm lại, theo báo cáo “Về tình trạng các xu hướng 2019: lĩnh vực AI”, China hiện đứng đầu thế giới về số sáng chế trong lĩnh vực Al do các viện trường thực hiện. Nhưng Mỹ vẫn giữ được đôi chút ưu thế so với China về số sáng chế trong lĩnh vực AI, thực hiện ở các cơ sở nghiên cứu tư nhân (chủ yếu nhờ IBM, Microsoft và Google). Kết luận này phù hợp với “Báo cáo về Phát triển AI của China 2018” (China AI Development Report 2018) do Đại học Thanh Hoa thực hiện.
Nghĩa là trong lĩnh vực AI, China hiện đang dẫn đầu thế giới về số lượng công bố khoa học uy tín và bằng sáng chế. Chẳng hạn trong Hình 3, là biểu đồ về phân bố theo quốc gia những công bố khoa học được trích dẫn nhiều nhất trong lĩnh vực AI. Phải nói thêm một điều, rằng năm 2018, China, Mỹ và Nhật Bản đang nắm giữ tổng cộng 74% số sáng chế trong lĩnh vực AI.
Về mặt số lượng chuyên gia AI (Tài năng AI) và số lượng công ty hoạt động trong lĩnh vực AI, China hiện vẫn thua Mỹ (Hình 4,5). Về chuyên gia AI, Mỹ hiện có 28.536, còn China hiện có 18.232. Về số công ty AI, Mỹ hiện có 2038, so với China hiện có 1011. Ngoài ra, phải kể thêm 4 lĩnh vực khác liên quan đến AI, mà China hiện vẫn thua Mỹ đáng kể.
1) Số lượng chuyên gia AI hàng đầu,
2) Các tiêu chuẩn kỹ thuật
3) Nền tảng phần mềm
4) Cơ sở nền tảng dụng cụ bán dẫn, vi mạch.
Theo một số chuyên gia, sự lạc hậu trong 4 lĩnh vực này có ý nghĩa sống còn đối với China. Trong khi nhiều người khác lại cho rằng, đối với China, những yếu tố này không quá quan trọng. Chẳng hạn, đó là kết luận được đưa ra trong một phân tích gần đây của Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS) "Tìm hiểu về chiến lược AI của China. Đầu mối về tư duy chiến lược China về trí tuệ nhân tạo và an ninh quốc gia (Understanding China’s AI Strategy. Clues to Chinese Strategic Thinking on Artificial Intelligence and National Security)".
NHẬN ĐỊNH CỦA CÁC CHUYÊN GIA
Tôi xin phép giới thiệu ý kiến của ông Sergey Karelov, Giám đốc Công nghệ công ty Witology, Chủ tịch Liên đoàn các chuyên gia IT độc lập Nga. Người từng làm việc khá nhiều năm ở Mỹ, với tư cách top-manager ở IBM, Silicon Graphics (SGI). Sergey Karelov cho biết, là mặc dù ông chia sẻ phần lớn suy nghĩ của Lý Khai Phục (một đồng nghiệp cũ), thể hiện trong tác phẩm “AI Siêu quyền lực: China, Thung lũng Silicon và Trật tự thế giới mới”, nhưng không đồng ý với nhận định của ông này, về sự dẫn đầu tất yếu của China trong lĩnh vực AI.
Theo ông Karelov, chẳng có sự dẫn đầu nào của China trong phát triển AI trên thế giới là “tiền định” cả. Ông cho rằng, ông Lý Khai Phục đã không tính đến một yếu tố chính. Đó là tiềm năng của Mỹ, người dẫn dắt sự phát triển AI trên thế giới trong nhiều thập niên gần đây. Hiện nay theo ông, nước Mỹ vẫn bảo tồn được mọi cơ sở cần thiết, để có thể khôi phục lại cho mình nguyên trạng (status quo).
Để thay đổi tiến trình cuộc đua AI trên thế giới hiện nay, nước Mỹ cần phải làm một số điều tương tự, như họ đã làm trong quá khứ, khi nhận thức được sự lạc hậu của mình về công nghệ trong những lĩnh vực chiến lược, liên quan đến an ninh quốc gia.
Cuộc đua AI hiện nay với China, chính là trường hợp tương tự việc triển khai Dự án Manhattan những năm 1942-1946. Khi đó, nước Mỹ đã quyết định bằng mọi giá phải chiến thắng cuộc đua chế tạo bom nguyên tử. Mặc dù thực tế người Đức bắt đầu triển khai dự án bom nguyên tử của mình từ trước đó 3 năm, và đã đi trước được một quãng đường đáng kể.
Cũng tương tự, là lịch sử chương trình không gian vũ trụ Apollo (1960-1973), một chương trình nhằm phát triển những phi thuyền có người lái đưa người lên Mặt Trăng đầu tiên trên thế giới. Khi đó, mục tiêu chính của Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trụ, là bắt kịp và vượt qua Liên Xô, người đã đi trước Mỹ trong chương trình không gian vũ trụ của mình.
Tầm vóc nhiệm vụ khôi phục vị thế dẫn đầu trong lĩnh vực AI, mà nước Mỹ hiện nay đang phải đối mặt, hoàn toàn có thể so sánh với hai nhiệm vụ đề cập ở trên. Và vì vậy, cực kỳ quan trọng là phải thấu hiểu được những điều kiện, mà nếu thực hiện thành công chúng, sẽ góp phần tạo một bước đột phá công nghệ mới ở quy mô quốc gia Mỹ.
Hình 1 - Số lượng các sáng chế AI trong từng lĩnh vực và giao điểm của chúng.
Hình 2 – Phân bố số lượng sáng chế theo lĩnh vực AI của các viện, trường hàng đầu thế giới.
Hình 3 – 10 quốc gia có công bố khoa học trong lĩnh vực AI được trích dẫn nhiều nhất.
Hình 4 - Phân bố theo quốc gia của 204.575 chuyên gia AI toàn cầu (trong đó Mỹ là 28.536, China là 18.232, …). Màu sắc đặc trưng cho sự phân bổ các chuyên gia AI tại 5 thành phố lớn nhất của mỗi quốc gia.
Hình 5 - Số lượng công ty làm việc trong lĩnh vực AI của các quốc gia.
(Còn tiếp).
Tôi xin phép tiếp tục câu chuyện về cuộc đua AI giữa Mỹ và China xét đến những yếu tố khác, bao gồm thể chế chính trị kinh tế, khả năng đầu tư, thị trường, ... ngày mai 15/05/2019.


Nga - Hoa


NGA VÀ CHINA – ĐÔI BẠN BẤT ĐẮC DĨ
Chào các bạn thân mến. Quan hệ Nga-Trung trong hơn 300 năm lịch sử chưa bao giờ đơn giản. Trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung leo thang, mối quan hệ này ngày càng phức tạp hơn.Tôi xin phép tiếp tục loạt bài về nước Nga trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung.
Vừa qua trong chuyến đi thăm Nga đầu 06/2017, Tập Cận Bình chia sẻ nhiều điều đúng đắn, về sự lỗi thời của một thế giới đơn cực. Ông cũng nhấn mạnh rằng Moskva là nơi ông ghé thăm nhiều nhất trong những năm qua, rằng quan hệ Nga-Trung chưa bao giờ nồng ấm như hiện nay.
Đáp lại Putin lại một lần nữa khẳng định, là quan hệ Nga-Trung hiện tốt đẹp chưa từng có trong lịch sử bang giao hai nước, rằng hai nước luôn kề vai sát cánh. Ông cũng trực tiếp lên án việc Mỹ tìm mọi cách đẩy Huawei ra khỏi thị trường truyền thông quốc tế và công nghệ 5G, và coi đó là một tiền lệ xấu trong tự do thương mại quốc tế.
Trên thực tế đúng là quan hệ thương mại Nga- Trung ngày càng phát triển. Năm 2018, kim ngạch thương mại giữa Nga và China là 108 tỷ USD (tăng 27% so với năm 2017. Trong đó, nhập khẩu từ China sang Nga tăng 12% lên 43,45 tỷ USD và xuất khẩu từ Nga sang China tăng 44,3% lên 53,78 tỷ USD. Tức là khác với Việt Nam và Mỹ đang nhập siêu rất lớn từ China, hàng năm Nga xuất siêu sang China khoảng 10 tỷ USD.
Công ty Huawei và công ty MTS một trong những nhà mạng di động lớn nhất Nga đã ký một thỏa thuận cấp chính phủ về phát triển công nghệ 5G và ra mắt thí điểm các mạng truyền thông thế hệ thứ năm ở Nga vào năm 2019-2020. Lễ ký diễn ra hôm 07/06/2019 tại Điện Kremlin trước sự chứng kiến của Putin và Tập Cận Bình.
Hai công ty sẽ cùng triển khai ở Nga các công nghệ và giải pháp kỹ thuật 5G và IoT (Internet of Things) của Huawei trên cơ sở hạ tầng hiện có của MTS, cùng phát triển mạng LTE thương mại hiện có của MTS lên mức tương thích với công nghệ 5G.
Theo Alexey Kornya Chủ tịch MTS, hợp tác giữa MTS và Huawei góp phần đưa quan hệ thương mại và kinh tế Nga-Trung lên một tầm vóc mới. Ngoài MTS, các nhà mạng di động Nga hàng đầu khác như Beeline. Megaphon cũng đã ký kết ghi nhớ với Huawei. Đồng thời hiện nay, hàng chục đại học hàng đầu Nga đã và đang ký hợp đồng hợp tác R&D với tập đoàn Huawei trong nhiều lĩnh vực.
Tóm lại, hai bên đã trình diễn trước công chúng toàn thế giới, đặc biệt là công chúng Nga, China và Mỹ một mối quan hệ nồng ấm chưa từng có. Nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Người Nga biết rất rõ người China và người Mỹ muốn gì ở họ, và cái giá của mình.
Đồng thời người Nga cũng hiểu rõ ràng đầy đủ, rằng China luôn là đối tác rất khó chơi và phải hết sức cảnh giác. Tôi xin phép chia sẻ một vài suy nghĩ của người Nga về “bạn vàng” China.
CHINA QUÁ THỰC DỤNG
Trong bối cảnh đó, nhiều nhà quan sát kinh tế chính trị Moskva bắt đầu dự đoán về sự khởi đầu của một giai đoạn mới trong quan hệ Nga-Trung. Đương nhiên những kỳ vọng như vậy, không chỉ căn cứ vào những phát biểu của Putin hay Tập Cận Bình, mà chủ yếu vào bối cảnh quốc tế đối với Trung Quốc đang thay đổi nhanh chóng.
Theo quan niệm của các nhà quan sát chính trị Moskva, từ sau khi Liên Xô sụp đổ, tuy trên thực tế, Bắc Kinh luôn ủng hộ một thế giới đa cực và các quy tắc của cuộc chơi này, nhưng Bắc Kinh lại giữ một vị trí qúa thực dụng và hành xử kiểu “thao quang dưỡng hối”, nên Bắc Kinh chưa bao giờ ra mặt ủng hộ và bỏ mặc Moskva trong cuộc đối đầu với phương Tây ở Ukraina, Syria, Venezuela và Iran.
Ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi Bắc Kinh ủng hộ Moskva ở Hội đồng Bảo an LHQ, nói chung Bắc Kinh luôn giữ vị thế người quan sát, như một con Khỉ khôn ngoan ngồi trên đồi ăn chuối, tích tụ công lực và thản nhiên nhìn Gấu Nga vật lộn với Ó Mỹ, báo châu Âu dưới thung lũng.
Kể từ năm 2013, Putin và Tập Cận Bình đã gặp nhau tổng cộng gần ba chục lần, mặc dù quan hệ hai quốc gia và cá nhân các nguyên thủ rất thân thiện, Putin vẫn không thuyết phục được Tập Cận Bình thay đổi thái độ thực dụng và tụt xuống từ đỉnh đồi. Đúng ra, Putin phải cảm ơn Donald Trump vì ông này đã làm được điều không tưởng này.
Những diễn biến của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung cho thấy cả Mỹ và China đều hiểu sai về nhau. China không lường hết được quyết tâm “chiến” của Trump, còn Trump và cộng sự không đánh giá được khả năng chịu đòn của China và ảnh hưởng tàn phá toàn cầu của cuộc chiến này.
Về phía Bắc Kinh, vì cho rằng China chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến tổng lực, lúc đầu Bắc Kinh đã cố gắng nhân nhượng, trấn an Trump bằng mọi cách, Bắc Kinh không những nhượng bộ về kinh tế, mà còn tự nguyện rời khỏi Venezuela.
Tuy nhiên, những đỏi hỏi ngày càng tăng của Trump trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung và đặc biệt là cuộc tấn công trừng phạt đối với Huawei đã cho Bắc Kinh thấy rõ ý đồ Mỹ, là bằng mọi cách người Mỹ đang cố gắng ngăn chặn China không cho trở thành cường quốc công nghệ, kể cả với cái giá là phải phá vỡ trật tự thế giới hội nhập, tự do thương mại và toàn cầu hóa hiện hành.
Rõ ràng Trump đã chẳng để lại cho China nhiều lựa chọn. Và nếu China sẵn sàng “phản công tự vệ”, thì tại sao họ lại không đứng cùng chiến tuyến với nước Nga, một quốc gia đã nhiều năm đứng trên “tuyến đầu chống Mỹ” nhỉ? Tuy nhiên thực tế phức tạp hơn rất nhiều. Sự thực dụng quá mức của người China chính là “hạt sạn” tiềm ẩn thứ nhất trong quan hệ hai nước.
Có thể sẽ có một vài sáng kiến hợp tác chính trị Nga-Trung, nhưng giữa hai nước chắc chắn sẽ không có triển vọng hợp tác, không có những dự án chính trị chung lâu dài, còn quan hệ đồng minh thì lại càng không thể. Đơn giản là vì quan hệ hợp tác rất chặt chẽ giữa Nga và China hiện thời, chủ yếu dựa trên một nguyên tắc – lợi ích chung là chống Mỹ.
Nếu Trump, hoặc tổng thống Mỹ mới nào khác hiểu được rằng, chẳng việc gì phải chiến đấu cùng lúc đồng thời chống lại cả China lẫn Nga, và như vậy mặc định đưa họ vào vòng tay nhau, ông sẽ bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh và mở lại thị trường Mỹ cho hàng hóa từ China.
Chắc chắn, trong trường hợp này, các nhà lãnh đạo China sẽ lập tức vui vẻ chấp nhận hòa hoãn với Mỹ, để có điều kiện tiếp tục “thao quang dưỡng hối” tích tụ công lực cho một cuộc chiến thực sự với Mỹ trong tương lai về sau.
NGA VÀ CHINA ĐỊNH HƯỚNG KHÁC NHAU
“Hạt sạn” thứ hai, là khả năng hợp tác Nga-Trung bị giới hạn về địa lý và văn hóa. Tuy là hàng xóm, nhưng đã vài trăm năm nay, Nga và China ngoảnh mặt sang những hướng khác nhau. Đối với người Nga, hướng chính trong chính sách đối ngoại và quốc phòng là phía Tây. Đó là việc ngăn chặn NATO, và tạo ra một hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu. Trong định hướng này của Nga, China chẳng có vai trò gì đáng kể.
Trong khi đó, hướng ưu tiên của Bắc Kinh, là việc bành trướng sang Đông Nam Á và Đông Á. Trong những cuộc xung đột này, nước Nga chẳng có lý do gì để đứng về phía China, vì nước Nga không thể mất quan hệ tốt đẹp với Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
Thực tế, lợi ích chung của Nga và China chỉ có ở khu vực Trung Á. Nơi cả Moskva lẫn Bắc Kinh, đều cùng quan tâm đến việc duy trì ảnh hưởng (sự phụ thuộc của các nước này vào mình) trong khu vực, cũng như bảo vệ các quốc gia khu vực này, chống lại các mối đe dọa xuất phát ra từ Afghanistan.
Thực tế hiện nay Nga và China chưa có xung đột ở khu vực này và đang hợp tác làm việc. Lý do là vì người China hiểu rõ rằng, việc kéo khu vực này ra khỏi phạm vi ảnh hưởng của Nga là vô nghĩa, vì tiềm ẩn nguy hiểm bất ổn cho China. Vì vậy, dù người China có thể tìm mọi cách mua và thao túng nền kinh tế các nước này, nhưng thôn tính thì không. Đơn giản là vì ở dân chúng địa phương Trung Á, tình cảm chống China rất mãnh liệt.
Tình cảm này vừa có tính lịch sử truyền thống, vừa xuất phát từ việc dân chúng khu vực này, lo ngại rơi vào số phận của những người anh em Uyghur ở Khu tự trị Tân Cương. Đồng thời cũng liên quan đến thái độ kẻ cả, thiếu tôn trọng đối tác của các doanh nghiệp China đang làm việc ở đây. Tóm lại, trong tương lai gần, người China chưa thể nghĩ đến việc kéo khu vực này ra khỏi phạm vi ảnh hưởng của Nga, vì họ chưa sẵn sàng chiến đấu cùng lúc với cả Mỹ lẫn Nga.
HỢP TÁC LÀM ĂN NGA-TRUNG KHÔNG DỄ
“Hạt sạn” thứ ba, là quan hệ hợp tác kinh tế Nga-Trung không dễ dàng. Bề ngoài triển vọng hợp tác kinh tế Nga-Trung có vẻ rất hấp dẫn. Putin hồ hởi nói về việc kim ngạch thương mại giữa Nga và China đã tăng hơn 100 tỷ USD, còn các doanh nhân China tại Diễn đàn kinh tế quốc tế St. Petersbur luôn gợi ý, rằng họ có thể chuyển một phần sản xuất ở China sang Nga, để tránh 25% thuế hàng hóa nhập khẩu từ China vào Mỹ. Đồng thời giá thành hàng hóa sản xuất một số mặt hàng ở Nga có thể thấp hơn, nhờ giá vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu thấp.
Về nguyên tắc mọi sự rất ok. Tiếc rằng thực tế hợp tác kinh tế Nga-Trung đầy những vướng mắc, sự không tương thích xuất phát từ cả hai phía. Thứ nhất, đó là sự thiếu quan tâm, quan liêu, chây ỳ và phá bĩnh của các quan chức địa phương Nga. Các doanh nhân Trung Quốc thường xuyên kể những câu chuyện sống động, về việc quan chức chính quyền địa phương Nga rất biết cách phá bĩnh các dự án đầu tư.
Những quan chức địa phương Nga không hề quan tâm đến việc phát triển cơ sở hạ tầng, họ không tìm cách tạo ra những điều kiện hấp dẫn đối với doanh nghiệp nước ngoài. Tóm lại, họ chẳng làm bất cứ điều gì, để các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy thoải mái, an toàn và có lợi cho mình.
Thứ hai, bản thân người Trung Quốc có một sơ đồ kinh doanh ở nước ngoài rất quái dị. Xin đơn cử sơ đồ kinh doanh du lịch China ở Nga. Người ta đã từng báo cáo lên tận Điện Kremlin, về một cuộc xâm thực chưa từng có của khách du lịch China đến St. Petersburg. Các công ty du lịch China đã từng bao tiêu toàn bộ một chuyến tầu Moskva-St. Petersburg. Sau đó, một đoàn hàng ngàn du khách China đã lũ lượt diễu hành qua các phố thủ đô phương Bắc.
Tuy nhiên lúc đó trong báo cáo, chính quyền St. Petersburg quên đề cập đến một chi tiết quan trọng, là thực tế thành phố St. Petersburg không có thu nhập đáng kể từ các vị khách này. Lý do là vì phần lớn du khách China đến Nga theo tour của các công ty lữ hành China. Ở Moskva và St. Petersburg, họ ở trong các khách sạn China, ăn uống và mua sắm đồ lưu niệm trong các nhà hàng, cửa hàng China trong một chu kỳ khép kín sử dụng đồng Yuan.
Thực ra, điều này không có gì mới, người Trung Quốc đã quen làm việc ở nhiều nước khác theo đúng một sơ đồ như vậy, nếu họ được phép. Thậm chí, người China còn đưa công nhân China sang các doanh nghiệp nước ngoài của mình. Tóm lại, nước Nga sẽ chỉ có thể tận dụng được lợi thế có từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, nếu biết bảo vệ nghiêm nhặt lợi ích của mình trong những dự án kinh tế với China.
Ở đây vấn đề không phải ở chỗ sử dụng công nhân China, mà là phải đạt được giá trị gia tăng đáng kể trong các dự án sản xuất có vốn China. Nếu không, những dự án này rất dễ trở thành các cơ sở chế biến thô, đơn thuần góp phần gia tăng khối lượng nguyên liệu xuất khẩu sang China.
So sánh quan hệ hợp tác kinh tế Nga-Trung với hợp tác kinh tế với Nga-Phương Tây, các nhà phân Moskva nhận định, rằng hiện nay thực tế quan hệ kinh tế Nga-Trung đang cân bằng. Nhưng trong mối quan hệ này, China hiện đang đóng vai trò dẫn dắt, điều làm giới kinh doanh Nga và Điện Kremlin rất khó chịu, nhưng không làm gì được.
Vì khác với phương Tây trước 2014 (Nga sáp nhập Crimea), đối với nước Nga, China chẳng phải là nguồn cung ứng công nghệ mới, cũng chẳng hề là nguồn tín dụng rẻ và dài hạn.
THAY CHO LỜI KẾT
Tóm lại đối với nước Nga, China tuyệt nhiên không thể thay thế phương Tây. Bây giờ điều này đã trở thành hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Nếu năm 2014 (Nga sáp nhập Crimea), một số người Nga vẫn còn đôi chút ảo tưởng về điều này, thì hiện nay những ảo tưởng này đã hoàn toàn biến mất.
Theo các nhà phân tích chính trị kinh tế Moskva, tuy việc xoay chuyển tình thế không dễ dàng, nhưng không có nghĩa là nước Nga nhất thiết phải trở thành một chư hầu cung ứng nguyên liệu thô cho China. Trong Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang leo thang hiện nay và trong cuộc Chiến tranh Lạnh Mỹ-Trung dự kiến sắp tới, nền kinh tế Nga có vẻ không có nhiều CƠ, nhưng cũng lại ít NGUY.
Vậy nước Nga phải làm gì để có thể hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc xung đột Mỹ-Trung đang leo thang? Thứ nhất, theo các ẩn sỹ Moskva, người Nga phải nhận thức rõ ràng, đầy đủ và dứt khoát là hiện nay China đang cần Nga hơn, là Nga cần China. Tất cả các giao dịch và đàm phán với China nhất thiết phải tiến hành trên nền tảng tương quan này. Thứ hai, tuyệt đối không để bị lôi cuốn vào các cuộc chiến không cần thiết cho mình.
Thứ ba quan trọng nhất, là có lẽ đã đến lúc chú Gấu Nga dù bị thương, nhưng vẫn đủ sức bảo vệ lợi ích của mình, phải leo lên đồi dành lấy quả chuối từ tay con Khỉ, đuổi con Khỉ xuống thung lũng chiến đấu với Ó Mỹ, xem nó giỏi tự bảo vệ đến đâu? Tốt nhất là phải bắt Khỉ chiến đấu với Ó Mỹ, không những để bảo vệ quyền lợi của mình, mà phải bảo vệ cả quyền lợi của Gấu.
PS. Thật là ngây thơ khi nghĩ rằng “PUTIN LÀM CHƯ HẦU TẬP CẬN BÌNH”, như một tác giả đã đặt tên cho bài viết của mình hiện đang lan truyền và được chú ý trên MXH Việt ngữ.
Thứ nhất theo định nghĩa, Chư hầu là một từ xuất phát từ chữ Hán (諸侯), trong nghĩa hẹp của chữ Hán dùng từ thời Tam Đại ở Trung Quốc (gồm nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu) để chỉ tình trạng các vua chúa của các tiểu quốc bị phụ thuộc, phải phục tùng một vua chúa lớn mạnh hơn làm thiên tử thống trị tối cao. Các nước nhỏ có sự thừa nhận chính thức vị thế chư hầu trước một nước lớn và được gọi là “nước chư hầu”.
Tại châu Âu trong chế độ phong kiến thời trung cổ mối quan hệ chư hầu (vassal) tồn tại ở dạng các lãnh chúa địa phương tuyên thệ trung thành với vua. Trong thời đại hiện nay chư hầu được sử dụng theo nghĩa bóng, dùng để chỉ tình trạng nước nhỏ phụ thuộc lộ liễu vào nước lớn nào đó, với mức độ phụ thuộc khác nhau.
Chẳng hạn, trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, có thể gọi Hàn Quốc, Thái Lan, Philippenes là những chư hâu của Mỹ, các nước này đã phải “chiều” Mỹ, cho phép Mỹ lập căn cứ quân sự ở nước mình và đưa quân vào tham chiến ở Việt Nam (dù trường hợp Thái Lan, Philippenes chỉ tượng trưng). Nhưng Singapore nhỏ bé tránh được việc này.
Hay là trong thờ kỳ Chiến tranh Lạnh, những nước Đông Âu thành viên khối Hiệp ước Warszawa đã phải “chiều” Liên Xô đưa quân vào Hungary 1956 và Tiệp Khắc 1968.
Thứ hai, theo các tiêu chí trên, việc khẳng định Putin (Nga) làm chư hầu cho Tập Cận Bình (China) là không đúng về mặt định nghĩa, và lại càng không đúng về mặt thực tế. China chẳng có con bài tẩy nào để ép, “dụ” được người Nga làm chư hầu của mình.
Đồng thời, người Nga chẳng yêu, mà lại càng chẳng sợ China đến mức “tự nguyện” làm chư hầu, như đã đề cập ở trên. Ngoài ra, như tôi đã trình bầy trong bài “Những lựa chọn lich sử của Mông Cổ”, 3 triệu dân Mông Cổ không có ý định làm chư hầu cho ai cả, và hình như Nga và China cũng không ép được họ.
Cuối cùng là sự lưa chọn văn minh. Trong các câu chuyện riêng tư, các bạn Nga của tôi luôn khẳng định, rằng đối với họ, khác với các giá trị văn minh China xa lạ, vừa rất “khó hiểu, vừa rất khó tiêu hóa”, những giá trị của văn hóa Châu Âu, kể cả tự do dân chủ nhân quyền, cũng như văn hóa chính trị và thể chế, đều gần gũi và dễ tiếp nhận hơn rất nhiều.
Vì vậy, họ tuyên bố rằng, trong thời gian vài năm trước mắt có thế (?) Nga sẽ hợp tác chiến thuật với China để chống lại bá quyền của nước Mỹ ”ngạo mạn”.
Nhưng về lâu dài, Nga sẽ hợp tác chiến lược với Mỹ và Phương Tây để chống lại sự trỗi dậy “không hòa bình” của China, bảo vệ các giá trị phổ quát của nhân loại về tự do dân chủ và nhân quyền. Thật là tiếc cho tác giả bài viết “PUTIN LÀM CHƯ HẦU TẬP CẬN BÌNH”.
TAM TRAN





Thứ Tư, 6 tháng 11, 2019

Tàu khựa

Tư duy của triều đình Trung Hoa coi Anh quốc chỉ là “phiên thuộc” cuối thế kỉ 18, đầu TK 19 và hệ quả
Cuối thế kỉ 18, Anh là cường quốc hải quân số 1 ở châu. Tuy nhiên khi phái đoàn ngoại giao Anh lần đầu tiên tới Bắc Kinh để thiết lập quan hệ với nhà Thanh, họ đã thất bại. Lý do, triều đình Trung Hoa không biết Anh quốc là nước nào, nằm xa đến đâu và quan trọng nhất, trong tư duy của quan lại và Hoàng đế Trung Hoa, Anh quốc cũng là “phiên thuộc” xa xôi đang muốn đến “xin làm chư hầu” và “mong cầu ân huệ” từ Hoàng đế Trung Hoa.
Năm 1793-1794, một phái đoàn Anh do George McCartney dẫn đầu đến Bắc Kinh nhằm mang thông điệp của vua Anh (Vua George III) tới Hoàng đế Trung Hoa (vua Càn Long) rằng London muốn “hai nước đặt sứ thần thường trú lẫn nhau và Anh muốn được tiếp cận thương mại các cảng dọc bờ biển Trung Quốc (TQ)”.
Anh lúc này đang là thế lực hải quân và thương mại hạng nhất ở châu Âu, các nước ở châu Âu lúc đó được Anh coi là “cửa dưới” còn các tiểu lục địa mênh mông như Bắc Mỹ, Ấn Độ, Úc đang là thuộc địa của Anh. Việc cử phái đoàn đến TQ với thái độ nhún nhường thể hiện sự tôn trọng rất cao của Anh dành cho TQ, nước được Anh mô tả là “dân tộc văn minh cổ xưa nhất, quy mô kinh tế lớn nhất và dân số đông nhất thế giới”.
Mccartney mang theo một nhóm chuyên gia y tế, máy móc, cơ khí, đồng hồ và các thứ như bộ phận pháo binh, đồng hồ đeo tay, khinh khí cầu nhằm gây ấn tượng với Hoàng đế TQ về lợi ích giao thương với Anh và trình độ khoa học, công nghiệp hoá của Anh lúc đó.
Phái đoàn Anh kỳ vọng chủ nhà TQ hiểu rằng họ đã tụt hậu quá xa đến vô vọng về tiến bộ văn minh công nghệ và muốn quan hệ giao thương với Anh nhằm khắc phục tụt hậu đó. Tuy nhiên, Mccartney nhầm to. Thứ nhất, Hoàng đế và quan lại TQ hoàn toàn không quan tâm vị thế của Anh là gì, công nghiệp hoá thì quá xa vời với nhận thức và hiểu biết ở TQ lúc đó và càng không hiểu những khái niệm như “thế lực hải quân” hay “thương mại công bằng” mà Anh muốn nó là cái gì. Thứ hai, TQ chỉ xem Anh như một “bộ tộc phiên” ở xa (so với phiên gần như VN, Triều Tiên) nhưng kiêu căng, ngạo mạn và dốt nát đang muốn xin xỏ ân huệ đặc biệt của Thiên tử Trung Hoa.
Mccartney được đón tiếp bằng cao lương mỹ vị và các khẩu hiệu kiểu “Đại sứ Anh mang đồ đến TIẾN CỐNG Hoàng đế Trung Hoa”. Vấn đề lớn nhất đặt ra là Mccartney được yêu cầu phải “Khấu đầu phủ phục” trước Hoàng đế “để tỏ lòng thành kính chư hầu”. Đến Vua Anh, Mccartney cũng ko phải khấu đầu phủ phục (ở Anh, khi ở trước vua là kiểu cúi đầu chào và quỳ 1 chân). Bài toán của các quan TQ đặt ra là nếu ko khấu đầu thì ko có cuộc yết kiến nào hết với Hoàng đế, không có bàn chuyện giao thương hay gì cả. Sau vài tuần bàn lên bàn xuống chuyện khấu đầu hay ko khấu đầu phủ phục, phía TQ nhượng bộ cho Mccartney thực hiện kiểu nghi lễ như ở châu Âu là cúi đầu chào quỳ một chân.
Các màn minh hoạ của Mccartney về đại bác, thấu kính, khinh khí cầu mà Mccartney tưởng sẽ “tạo ra điều kì diệu” với quan lại TQ thì ngược lại, quan lại TQ phẩy tay, đánh giá kiểu ko biết cái này tác dụng gì và “ở TQ chả xa lạ gì” (trong khi ko hề có), một thái độ trịnh thượng, hợm hĩnh, "ếch ngồi đáy giềng" mà Mccartney cố mấy cũng ko hiểu được!
Nửa tháng tiếp theo, thay vì được diện kiến Hoàng đế, ông tiếp tục được đón tiếp bằng những bữa tiệc, trò giải trí và các phiên thảo luận về nghi thức diện kiến nào là thích hợp.
Cuối cùng, sáng sớm ngày đông, Mccartney được đánh thức dậy để chuẩn bị vào diện kiến. Sau một loạt nghi lễ cầu kì, ông cũng gặp được Hoàng đế, đích thân rót rượu mời và mời ông uống cạn ly. Sau đó thay vì trao đổi về sứ thần thường trú và thương mại, Hoàng đế trao cho ông một cái hộp trong đó có một lá thư gửi Vua Anh. Buổi gặp kết thúc và Mccartney không kịp nói gì. Các quan lại nghĩ rằng mùa đông sắp đến và Mccartney cần về lại London. Họ chuẩn bị đồ đạc và tiễn ông ở Tử Cấm thành. Chuyến đi của Mccartney thất bại toàn diện và ông ngậm ngùi tay trắng trở về. Trong thư Hoàng đế Trung Hoa viết gì?
- Trung Quốc đại bại trong Chiến tranh Nha phiến, nhượng địa Hồng Kông cho Anh và sự chấm dứt Trật tự "Hoa vi trung"
Chỉ dụ của Hoàng đế Trung Hoa cho Mccartney bắt đầu bằng nhận xét về “sự nhún nhường cung kính” của Vua Anh khi gửi phái đoàn “triều cống” đến Trung Quốc (TQ), cho rằng Anh “bị thúc đẩy trước ham muốn nhún nhường muốn cùng chung hưởng những lợi ích từ nền văn minh (Trung Hoa)”, đồng thời bác bỏ các “đề xuất ngớ ngẩn” về việc cử sứ thần thường trú ở mỗi nước hay việc Anh muốn mở rộng phạm vi giao thương ngoài Quảng Châu. Chỉ dụ còn viết “Nếu tôi (Càn Long) có ra lệnh cho ngài phải tiến cống, thì hỡi Đức vua (vua Anh George III), ngài sẽ phải chấp nhận”! Mccartney thấy không có thể làm được gì hơn và quay về Anh qua Quảng Châu.
Triều đình TQ rõ ràng xa lạ với năng lực và tư duy của các nhà lãnh đạo phương Tây về khả năng sử dụng vũ lực nên họ đang đùa với lửa mà không biết. Mccartney để lại lời đánh giá:
“Một cặp tàu khu trục nhỏ của Anh sẽ đủ sức đương đầu với toàn bộ lực lượng hải quân của đế chế này... trong chưa đầy một mùa hè có thể phá huỷ toàn bộ lượng tàu bè qua lại trên các bờ biển”.
Tại châu Âu lúc này, sự trỗi dậy của nền Cộng hòa Pháp thời Napoleon I đe doạ sự cân bằng ở châu Âu và quyền lực của các thế lực phong kiến vương quyền. Anh và các nước lớn khu vực như Phổ, Áo, Nga bước vào cuộc chiến tranh 20 năm khốc liệt với Pháp. Sau khi quân Pháp đại bại tại trận chiến quyết định Waterloo năm 1815, Anh duy trì vị thế độc tôn ở châu Âu và tiếp tục quay lại cuộc phiêu lưu của mình ở châu Á.
ANH TRỞ LẠI TRUNG QUỐC
Năm 1816, phái đoàn khác của Anh do William Amherst dẫn đầu đến Bắc Kinh nhưng vấn đề mấu chốt lại là chuyện "khấu đầu" hay không khấu đầu. Amherst kiên quyết không nhượng bộ, không khấu đầu và do đó ông bị xua đuổi.
Năm 1834, Ngoại trưởng Anh Tử tước Palmeston cử phái đoàn nữa đến Bắc Kinh do sĩ quan hải quân Napier dẫn đầu, mục đích là đề nghị quan hệ ngoại giao lâu dài và xây dựng một đại sứ quán Anh thường trú tại Bắc Kinh, tiếp cận các cảng dọc bờ biển TQ. Tuy nhiên khi đến TQ Napier lại bất đồng với quan địa phương về việc nhận thư của nhau; ông Napier này sau đó bị sốt rét và không qua khỏi.
Đây là lần cuối cùng Anh chấp nhận sự từ chối. Sự phản đối của Anh với triều đình Mãn Thanh ngày càng mang tính đe doạ hơn. Sự tính toán của Anh nói riêng, các nước phương Tây nói chung, trên nền tảng đang chạy đua công nghiệp hoá và thuộc địa hoá toàn cầu, về một hệ thống quốc tế hiện đại dọc các bờ biển khắp thế giới đã đặt ra những sức ép xã hội, kinh tế, quốc phòng lên nhà nước Trung Hoa, vốn suốt mấy ngàn năm trước đó chỉ biết đến “Dĩ Hoa vi trung”, lấy Trung Quốc làm trung tâm của thế giới.
ĐỤNG ĐỘ GIỮA HAI TRẬT TỰ THẾ GIỚI
Thế giới quan ngoại giao Trung Hoa coi tất cả các nước đều là “phiên” và phải dâng “vật triều cống” là điều xa lạ hoàn toàn với các thế lực công nghiệp mới Âu châu. Các mục tiêu giao thương, tiếp xúc ngoại giao và đặt sứ quán thường trực của Anh là một tiêu chuẩn ngoại thông thường ở Âu châu được thiết lập theo Trật tự Viên 1815. Tuy nhiên, nó quá khác biệt với nhận thức của triều đình Trung Hoa không biết gì khác ngoài Trật tự thế giới kiểu Trung Hoa.
Nguy cơ xung đột với Anh mà Trung Quốc phải đối mặt ngày một tăng khi mâu thuẫn động đến các lợi ích cốt lõi của mỗi bên xung quanh vấn đề thuốc phiện. Vùng Đông Ấn Độ thuộc Anh (ngày nay là Bangladesh) là xứ trồng lượng thuốc phiện khổng lồ cho Công ty Đông Ấn Anh và rõ ràng Anh đang cần thị trường tiêu thụ lớn. Thị trường lý tưởng không gì khác là Trung Quốc. Các thương nhân Anh và những kẻ buôn lậu ở TQ tìm mọi cách nhập lậu thuốc phiện vào Trung Quốc. Ngược lại, thuốc phiện bị cấm theo luật pháp TQ. Thuốc phiện làm quốc khố hao mòn và người nghiện thì la liệt. Trọng trách xử lý vấn đề được giao cho viên quan Lâm Tắc Từ, một ông quan Nho học theo đường lối cứng rắn. Ông này đến Quảng Đông và yêu cầu tất cả phái đoàn thương mại nước ngoài phải giao nộp các thùng thuốc phiện lậu để tiêu huỷ. Ai trái lệnh sẽ bị hàng sẽ bị phong toả, người bị bắt giữ và chỉ được thả khi giao nộp thuốc phiện.
Cho rằng Trung Hoa mình là số 1, Lâm Tắc Từ còn viết thư gửi cho Nữ hoàng Anh Victoria yêu cầu huỷ bỏ việc sản xuất và trồng cây thuốc phiện suốt dọc biên giới Ấn Độ với TQ. Tuy nhiên, bức thư này dường như không bao giờ tới được tay Nữ Hoàng. Thay vào đó, cộng đồng Anh tại Quảng Châu coi đó là sự thách thức trực tiếp của Lâm Tắc Từ và kiến nghị lên Nghị viện tuyên chiến với Trung Hoa, đặc biệt sau khi Lâm Tắc Từ tịch thu và tiêu huỷ 20.000 thùng thuốc phiện của Anh (tương đương 1200 tấn) và xua đuổi thương nhân Anh khỏi Quảng Châu. Ngoại trưởng Anh Palmeston nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề và khoảng cách nhận thức đối kháng quá lớn không thể dung hoà giữa Anh và Trung Quốc. Chính quyền Anh ra lệnh hạm đội của mình bao vây các cảng chính của TQ và chặn tất cả các tàu TQ nào có thể gặp phải, bao vây cả một số điểm chiến lược của TQ. Chiến tranh Nha phiến bắt đầu.
CHIẾN TRANH NHA PHIẾN
TQ đánh giá viễn cảnh bị Anh tấn công là một đe doạ lớn, tuy nhiên TQ không đánh giá được đe doạ đó lớn đến mức nào. Tư duy quân sự kiểu cổ vẫn được TQ sử dụng, đó là đánh vào hậu cần và tiếp tế của Anh nhằm chặn đứt đường vận lương. TQ còn sử dụng biện pháp “hoả công” để đối chọi tàu Anh. Tuy nhiên, cách tiếp cận này đã trở nên vô nghĩa với lực lượng Anh gồm chiến thuyền vỏ sắt cơ động và bọc lót nhau mặt trận theo kiểu chiến tranh hiện đại.
Bị Anh phong toả sông Châu Giang, Lâm Tắc Từ vẫn viết thư gửi Nữ hoàng Anh nhưng vẫn với các ngôn từ ngạo mạn quen thuộc, coi Anh là “đám phiên xa xôi dám thách thức, sỉ nhục Đế chế TQ”, khuyên Anh nên “tự nạp mình với Thiên triều và dâng lên lòng trung thành”! Những cảm nhận sai lệch và tự phụ của Thiên triều này không có ý nghĩa gì với Anh. Những chiến thuyền cùng đại bác hiện đại và chiến thuật kiểu mới tiếp tục xuất trận với thiệt hại thảm khốc cho quân đội TQ. Lực lượng của TQ thất trận tại Chu San, Cửu Long, tiếp đó đại bại tại lưu vực sông Châu Giang, mất quyền kiểm soát Quảng Châu.
Một viên quan TQ là Kỳ Sơn, Tổng trấn Trực Lệ (vùng đệm Bắc Kinh) được điều đình với anh. Ông này đi thăm các tàu chiến TQ và nhận ra lực lượng TQ với các kiểu súng cổ, tầm bắn hạn chế (100m) còn dùng từ thời nhà Minh hoàn toàn không có cơ hội gì trước các chiến thuyền vỏ sắt cơ động di chuyển nhanh, dễ dàng đi ngược sóng và ngược gió (thuyền chiến TQ vẫn dùng buồm và di chuyển theo hướng gió và dòng nước), lại được trang bị đại pháo tiên tiến có khả năng xoay nòng về mọi hướng với độ sát thương lớn của Anh. Ông này đề ra giải pháp hoà hoãn và xoa dịu với Anh. Quân Anh đồng ý và rút bớt quân. Triều đình hướng dẫn Kỳ Anh đàm phán kéo dài nhằm giữ chân quân Anh trong khi Bắc Kinh sẽ tìm cách đối phó và tập hợp lại lực lượng. Tuy nhiên, ý đồ đấy nhanh chóng phá sản. Anh đòi thêm nhượng bộ về lãnh thổ và bồi thường. Kỳ Sơn buộc phải đồng ý với Charles Elliot, Đại tá hải quân Anh tại TQ một Hiệp ước Xuyên Tỵ với các điều khoản nhượng Hồng Kong, bồi thường chiến phí 6 triệu bạc và cho phép thương nhân Anh "làm ăn công bằng" ở Quảng Châu. Hiệp ước Xuyên Tỵ này tuy nhiên lại ko được cả hai triều đình phê chuẩn vì cho rằng bên mình đã nhượng bộ quá nhiều. Elliot và Kỳ Sơn cùng bị triệu về và bị xử phạt.
Ngoại trưởng Anh cử đại diện đàm phán mới cứng rắn hơn là Ngài Henry Pottinger, phía TQ là Hoàng tử Kỳ Anh. Pottinger phong toả thêm nhiều bến cảng, cắt đứt giao thông dọc Kênh Lớn và sông Dương Tử, đặt Nam Kinh trước nguy cơ bị tấn công.
TQ theo đuổi giải pháp hoà bình. Kỳ Anh theo đuổi giải pháp "đàm phán tình thân", lấy quan hệ cá nhân với Pottinger làm trọng, đối xử cực kỳ thân mật với Pottinger. Tuy nhiên, phong cách dùng quan hệ cá nhân kiểu này không phải thứ gần gũi với người Anh. Mặc dù giữ quan hệ cá nhân khá tốt với Kỳ Anh nhưng sức ép đàm phán Pottinger đưa ra là không đổi. Cách thức muốn quản lý tâm lý kiểu “xoa dịu phiên” của Kỳ Anh vẫn bị cụ thể hoá bằng hai Hiệp ước chính thức là Hiệp ước Nam Kinh và Hiệp ước Bogue. Ngoài 3 điều như Hiệp ước Xuyên Tỵ, TQ còn phải mở cửa thêm 4 cảng cho Anh thay vì mỗi Quảng Châu như trước, gồm thêm Ninh Ba, Thượng Hải, Hạ Môn và Phúc Châu. Anh còn được quyền duy trì phái đoàn lâu dài tại các thành phố cảng, đàm phán trực tiếp với quan lại địa phương, bỏ qua triều đình tại Bắc Kinh. Hoạt động buôn bán thuốc phiện ở TQ chỉ cần theo luật Anh ko cần theo luật TQ.
Một hiệp ước cực kỳ bất bình đẳng và thảm bại cho TQ. Tuy nhiên, theo nhà biên dịch ở TQ thế kỉ 19, Thomas Meadows, người TQ cao ngạo lại nhìn thất bại của Chiến tranh Nha phiến chỉ là nhượng bộ của Hoàng đế nhằm “xoa dịu phiên” và làm “suy yếu phiên”(!).
Trong chiến tranh Nha phiến I (9/1839-8/1842), lực lượng của Anh trong toàn cuộc chiến tranh Nha phiến chưa đến 20.000 quân và gần 40 chiến thuyền nhưng dễ dàng đánh bại lực lượng quân hơn 200.000 lính của TQ, phá huỷ hoàn toàn các chiến thuyền phương Nam của nhà Thanh đóng ở Quảng Châu. Tiếp đó quân Anh dễ dàng đánh chiếm Hạ Môn, tiếp tục tiến về phía Bắc bao vây Ninh Ba, Nam Kinh. Mối đe doạ thất thủ đã đến rất gần Bắc Kinh. Các tuyến phòng thủ và pháo đài ven sông của TQ tỏ ra lỗi thời trước sức mạnh của đạn pháo cỡ lớn và rocket từ hải quân và pháo binh Anh quốc, những hỏa lực có tầm bắn xa (200-300m), chính xác và độ sát thương lớn trong khi hỏa lực của TQ tầm bắn ngắn (100m) ko vươn tới được mục tiêu, độ sát thương thấp nên gần như không gây thiệt hại đáng kể cho Anh. Các chiến thuật của bộ binh kết hợp pháo binh cũng thể hiện sức mạnh vượt trội trước tư duy và đội hình chiến tranh kiểu cũ của TQ.
SỰ SỤP ĐỔ CỦA TRẬT TỰ THẾ GIỚI TRUNG HOA
Vấn đề lớn hơn sau Hiệp ước Nam Kinh là Mỹ, Pháp cũng theo chân Anh đòi TQ nhượng bộ và dành cho họ những ưu đãi như với Anh, nguyên tắc về sau này trở thành nguyên tắc Đãi ngộ Tối huệ quốc của quan hệ quốc tế hiện đại.
Mặc dù vẫn dùng từ “phiên” để chỉ Anh, Pháp nhưng các Hiệp ước bất bình đẳng liên tiếp phải kí trong sự bất lực cũng làm triều đình và giới tinh hoa TQ nhận ra rằng, cuộc tranh chấp ko còn chỉ là vấn đề nghi thức hay thuốc phiện mà rõ ràng là TQ đang yếu thế trước các thế lực phương Tây và Trật tự thế giới Hoa vi trung của người Trung Hoa sẽ sụp đổ, Thiên Mệnh có thể bị đánh mất.
Palmeston còn cứng rắn đến độ ép TQ phải kí thêm điều khoản bổ sung cho Hiệp ước Nam Kinh quy định rõ những từ ngữ nào được dùng để mô tả Anh và quan hệ với Anh. Từ đây, TQ mới chính thức thôi dùng các từ “phiên” hay “van xin”, “run rẩy vâng mệnh” trong các văn bản của mình khi nói về Anh.
Người Hoa lại mơ về khả năng dùng văn hóa để "Hán hoá” những kẻ xâm lược này. Nhưng người Âu khác hẳn người Á ở điểm này và toan tính của triều đình lại phá sản. Họ chỉ quan tâm khai thác lợi ích kinh tế chứ ko để ý gì đến hoà nhập phong cách sống hay văn hoá Hán, nó chỉ bị giới hạn bằng tài nguyên và lòng tham chứ không bằng quan hệ cá nhân hay sự khôn ngoan hình thức.
Tóm lại, từ 1840-1850, Vương triều Trung Hoa đã từ đỉnh cao đã trở thành đối tượng tranh giành chia chác của các thế lực thực dân phương Tây. Thảm bại trong Chiến tranh Nha phiến, nhượng Hồng Kong cho Anh, Hiệp ước bất bình đẳng Nam Kinh đã mở màn cho sự sụp đổ của Trật tự Hoa vi trung và đưa TQ vao giai đoạn "Một thế kỉ tủi nhục". Điều giá trị nhất mà giới tinh hoa TQ nhận ra sau cuộc đổ vỡ này là công nghệ và thương mại đất nước cần phải thay đổi, trên nền tảng hoà hợp các giá trị vĩ đại của TQ thì an ninh đất nước mới có thể giữ được. Điều nay 100 năm sau, tức từ năm 1950, TQ mới làm lại được với sự ra đời trước đó 1 năm của nước CHND Trung Hoa.
-----
Chung Nguyễn / ncls group
Tham khảo: “Bàn về Trung Quốc” (Henry Kissinger) & một số tài liệu khác

Thụy Khuê

Bài phỏng vấn nhà nghiên cứu phê bình Thuỵ Khuê
(Bà Thuỵ Khuê là cháu nữ danh hoạ Lê Thị Lựu)
"Khi người Pháp chiếm được nước ta, họ tự hào là đã chiếm được một cường quốc vào bậc nhất ở Châu Á. Tôi không tin là Doumer hay Gosselin viết xạo điều này. Vậy ta thử tìm hiểu tại sao?
Tại vì Gia Long tự học, làm việc suốt ngày, đêm ngủ 6 tiếng, ăn cơm với cá mắm, xắn tay đào hào, đắp luỹ cùng với tướng sĩ. Tại vì Minh Mạng mua cân đường, cân nhãn cũng ghi vào Hội điển. Tại vì Tự Đức tôn trong sự phân quyền giữa hành pháp và tư pháp: khi bộ hình đã xử án, vua cũng không dám can thiệp. Tại vì những người trong hoàng gia không được phép giao du mật thiết với các quan, tránh sự đút lót, lạm quyền. Tại vì anh, em, cha, con không được làm quan cùng một chỗ, tránh sự thông đồng. Tại vì những đại thần như Nguyễn Tri Phương, khi thắng trận, được vua ban cho một bài thơ hay một chiếc áo gấm, khi thua trận bị xuống chức, bị luận tội...
Khi ta thấy những người như Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu... một đời hy sinh cho đất nước mà không có được một ngôi nhà khang trang để ở, thì hẳn ta phải ngần ngại khi muốn làm đại gia vì cha chú ta là đại thần.
Khi ta tìm trong bộ sách đồ sộ nhiều nghìn trang của các sử gia triều Nguyễn, mà không nhặt ra được một hàng tâng bốc nhà vua, thì ta phải nghĩ lại, khi viết những điều xu nịnh, trong những trang được gọi là lịch sử.
Nếu ta lạnh lùng làm ngơ để quân Tầu chiếm Hoàng Sa, thì ta phải chạnh lòng nhớ đến chúa Nguyễn đã tạo đội Hoàng Sa, để giữ quần đảo Hoàng Sa, đội Bắc Hải để kiểm soát Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc, từ thế kỷ XVII.
Vì vậy, khi đã biết sử, ta không thể sống tồi tàn, bệ rạc, ăn cắp của công, vì cha ông ta, cách đây mấy trăm năm đã sống có nhân cách, sống tử tế, sống lương thiện."
----------
Trả lời phỏng vấn Hà Thủy Nguyên, Văn Việt
1. Là một người sống ở nước ngoài tự học, tự nghiên cứu văn học VN, bà đã trở thành một nhà nghiên cứu, phê bình văn học có uy tín không chỉ với hải ngoại mà cả trong nước. Bà có thể chia sẻ với bạn đọc Văn Việt con đường đi tới thành công hiếm có như thế đối với một cây bút hải ngoại?
Tôi ở trong hoàn cảnh khá đặc biệt, năm 1962, khi đi du học, học về toán, rồi bỏ dở, lập gia đình, ở nhà trông con trong một thời gian dài, không để ý đến sách vở nói chung và văn học nói riêng. Bài đầu tiên đăng trên báo Tự Do, ở Bỉ, tháng 4/1985, là một đoản văn tựa đề Đường Về Hà Nội, kể lại chuyến tôi về thăm quê mùa thu 1984, sau 30 năm xa cách. Chuyến đi và bài viết này khởi đầu cho ngõ quặt của một đời người. Lúc đó tôi 40 tuổi. Sau khi tiếp tục viết vài truyện ngắn và những bài phiếm luận được độc giả yêu thích, đôi khi có điểm sách, rất nhanh, tôi thấy phải chọn: hoặc tiếp tục sáng tác, hoặc chuyển sang phê bình, không thể làm cả hai, vì hai ngành đòi hỏi hai cách đọc và học khác nhau. Tôi chọn phê bình, vì nghĩ rằng: nước mình có quá ít người viết phê bình giá trị, còn sáng tác mình có nhiều nhà văn lớn.
Khi đã quyết định, tôi bắt tay vào việc học ngay, vì có một khoảng trống gần 40 năm để lấp, bởi những người làm nghề này ở bên Pháp, ngoài tài năng, họ còn được rèn luyện kiến thức từ thủa ấu thời: chọn ban cổ điển, đậu cử nhân, tiến sĩ văn chương, là giáo sư đại học, v.v... Năm 1986, ở tuổi 42, tôi chỉ là một kẻ "vô học", cho nên việc tự học không dễ dàng, bởi vì, tôi học trường Việt, vốn văn hóa Việt trình độ phổ thông, nhưng tiếng Pháp là sinh ngữ, năm 1962, chỉ biết bập bẹ. Sau 20 năm ở Pháp, đã tạm gọi là một người biết tiếng Pháp, nhưng việc đọc và hiểu những sách lý thuyết văn học, triết học, là một chuyện khác hẳn. Vì vậy, hầu như mỗi trang sách tôi đều phải tra từ điển nhiều lần. Bây giờ vẫn giữ thói quen này, bỏi vì những chữ mình tưởng là biết rõ, thực ra nó có nhiều nghiã khác mà mình không biết, nó có cả lịch sử của chữ nữa, cho nên muốn thấu triệt phải có từ điển và phải suy luận thêm để chọn chữ cho đúng. Nhưng cái khó không chỉ ở đấy, mà còn ở sự thiếu vắng kiến thức về ngữ học, triết học, văn chương Tây phương mà các tác giả thường dẫn chứng, hoặc tiềm ẩn trong câu văn, trong tư tưởng của họ. Tôi vượt được bước khó khăn này, có lẽ cũng nhờ hai năm theo học lớp dự bị thi vào trường lớn (préparation aux grandes écoles): Cái học về toán thì mau quên, nhưng tinh thần cố gắng hết sức để đạt mục đích, mà người thầy truyền đạt, đã in sâu vào óc: nếu tôi là người quét đường, tôi phải quét sạch trơn; nếu tôi là người đá banh, tôi phải đá đến đích. Nguyên tắc này có thể dùng cho tất cả mọi người, mọi nghề. Áp dụng vào việc phê bình nghiên cứu, nó bắt người phê bình phải đi tới tận cùng lập luận của mình, buộc người nghiên cứu phải điều tra đến nguồn cội việc mình tìm kiếm, không ba hoa, không gian dối, không loè bịp, không viết những điều mình không hiểu, không viết những điều mình không biết. Sau 10 năm, vừa học, vừa đọc, vừa viết, năm 1996, tôi xuất bản cuốn sách đầu tiên Cấu Trúc Thơ, có thể coi là cuốn sách nền móng về việc tìm hiểu ngôn ngữ thơ, áp dụng vào việc phân tích thi ca Việt Nam.
Từ kinh nghiệm sống này, tôi có lời khuyên các bạn trẻ: Văn bằng chỉ giúp ta lúc đầu khi mới vào đời, như tờ giấy thông hành mở cửa để xin việc, nhưng sau đó, nếu muốn tiến phải tự học. Sự tự học và sự làm việc, sẽ phân biệt người này với người khác. Chỉ những người không có khả năng mới đem bằng ra khoe, bởi vì ở đời, điều quan trọng là mình đã làm được gì, chứ không phải mình đã đỗ bằng gì.
2. Bên cạnh nghiên cứu và phê bình văn học, những năm gần đây bà bắt đầu nghiên cứu về lịch sử VN. Mới đây nhất là công trình “Khảo sát những công trạng của người Pháp giúp vua Gia Long”. Tại sao lại có bước ngoặt trên con đường sáng tác của bà?
Tất cả hoạt động của con người trong mọi lãnh vực, tựu trung, chỉ là việc khám phá sự thực: Triết gia suốt đời chỉ tìm cách trả lời câu hỏi đầu tiên của một đứa bé mới bập bẹ biết nói: Cái này là cái gì? Vậy con người vừa biết nói, đã muốn tìm hiểu sự thực. Nhà khoa học khám phá sự thực về các hiện tượng thiên nhiên, về cấu trúc của một nguyên tử, của một hành tinh, của một con số... Người bác sĩ tìm hiểu sự thực về bệnh lý, về cấu tạo thân xác và tâm lý con người.
Người viết văn và viết sử cũng không qua khỏi thông lệ đó.
Hành động viết cũng là để thoả mãn khát vọng tìm sự thực. Tất cả các cách thể hiện văn chương và nghệ thuật, từ xưa đến nay, đều làm sao để đạt đến gần sự thực về con người hơn cả. Nói khác đi, nhà văn chuyển từ các khuynh hướng cổ điển, lãng mạn, sang hiện thực, siêu thực... đều là những cách họ thay đổi để làm sao biểu hiện được cuộc đời thực hơn: nhà cổ điển cho rằng cuộc đời là dòng chẩy theo thời gian, nhà văn là ông Thượng đế nhỏ, tạo nặn nhân vật theo ý của mình. Truyện cổ điển có các nhân vật điển hình, xẩy ra theo trình tự năm tháng... Nhà lãng mạn cho rằng văn chương phải nhuốm mầu sắc tình cảm, vì cuộc đời bị tình cảm con người chi phối. Người viết lãng mạn tìm cách dùng cảm xúc để rung động lòng người... Nhà hiện thực cho rằng phải viết y hệt như cuộc sống, tức là chụp ảnh cuộc sống bằng ngòi bút... Nhà siêu thực cho rằng tất cả những gì toát ra trong giấc mơ, như đầu người mình thú... mới là... thực, thực hơn cả hiện thực, tức là... siêu thực, các tiểu thuyết gia Châu Mỹ La Tinh hay dùng phương pháp này... Nhà hiện sinh phi lý cho rằng cuộc đời hoàn toàn phi lý, mình không biết mình là ai, vậy phải tìm hiểu mọi hành động của mình, phải viết được cái phi lý ấy ra... Nhà tiểu thuyết mới cho rằng tình cảm là yếu tố ngoại lai, giả tạo, làm cho người đọc khóc cười là ăn gian, phải vắt cạn tình cảm đi, bút pháp từ nay phải ráo hoảnh, lạnh lùng mà viết. Nhân vật có tên, nói năng, suy nghĩ, hành động, sáng tỏ như ban ngày cũng là giả tạo: người đi ngoài đường làm gì có tên? Ai biết tên họ, ai biết họ nghĩ gì? Vậy tất cả những truyện có đầu đuôi, có nhân vật, tên tuổi rõ ràng đều là bịa đặt cả. Tiểu thuyết mới không có nhân vật, không có cốt truyện, chỉ có chàng, nàng, cô, anh, hắn, anh chàng, cô gái... với một chuỗi dài những nhận xét mà nhà văn ghi lại qua cái nhìn của mình, cho nên tiều thuyết mới còn gọi là trường phái cái nhìn. Truyện ngắn Giao thừa của Hà Thuỷ Nguyên chịu ảnh hưởng ít nhiều của tiểu thuyết mới đấy.
Rồi mới hơn tiểu thuyết mới nữa, cái mới sau cùng còn tồn tại đến ngày nay, được gọi là hậu hiện đại, tức là lối kể từng mảnh, lắp ghép. Khái niệm hậu hiện đại này cũng là một sự lắp ghép: người ta lấy chữ hậu hiện đại của Jean-François Lyotard, trong cuốn La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại hay Thân phận hậu hiện đại), là một cuốn sách triết học bàn về thân phận của tri thức (savoir) thời nay, thời khoa học và tin học nắm "chủ quyền tuyệt đốỉ" trên mọi lãnh vực thông tin, tri thức trở thành món hàng buôn bán; tức là một lý thuyết không ăn nhằm gì tới văn chương; và họ đã ghép chữ hậu hiện đại này vào một lối viết, cũng không phải là mới, do James Joyce nghĩ ra từ đầu thế kỷ XX: ông để cho các mảnh suy nghĩ, mảnh đối thoại, mảnh tâm lý, mảnh hồi ức, chồng chất lên nhau, mục đích vẫn là để "tiến tới gần sự thực" hơn nữa: bởi ông nghĩ rằng sự thực mọi việc ngoài đời không diễn ta theo trình tự thời gian mà diễn ra lung tung, trong óc, trước mắt, sau lưng, ở xa, ở gần, trước hiện trường, trong hành động, trong hồi tưởng... cùng một lúc. Người ta đã chiếm hữu kỹ thuật sáng tạo này của Joyce và dán cho nó nhãn hiệu hậu hiện đại, chữ của Lyotard. Ngoài ra còn phải kể đến lối viết bí mật "trinh thám" của Kafka, làm cho truyện lôi cuốn, bắt độc giả phải đọc, phải theo dõi và cuối cùng, Kafka luôn luôn đưa đến kết luận: ta không biết gì cả, kể cả việc tìm hiểu ta là ai?
Nhưng phải công nhận rằng ba lối viết: viết từng mảng của James Joyce bị Hậu hiện đại trưng dụng, lối viết trinh thám của Kafka và lối viết tiểu thuyết mới của Alain Robbe-Grillet (không nhân vật, không cốt truyện, không nơi chốn), đã đi sâu vào văn chương, điện ảnh và các ngành nghệ thuật. Dễ thấy nhất là trong điện ảnh: ngày nay đạo diễn không kể một câu chuyện liên tục nữa mà thường chồng chéo những khúc diễn biến, những mảnh đối thoại, những hành động lên nhau, trong một khoảng thời gian tối thiểu. Chính những mảnh vụn, những miếng đời, được ném sống ra này sẽ phản ảnh hiện thực và lối viết Kafka tiên báo xã hội KGB của các chế độ độc tài, phản ảnh sự hồi hộp sợ hãi không cùng của con người bị theo dõi và không biết gì về mình.
Những lối trình bày cuộc đời như thế này, sẽ còn tồn tại cho đến khi có những thiên tài mới, tìm ra những cách viết mới để biểu hiện cuộc đời "gần với sự thực hơn".
Công việc phê bình cũng chỉ là đi tìm sự thực, nhưng ở đây là sự thực về một tác phẩm. Và tác phẩm văn chương, hội họa hay các ngành nghệ thuật, cũng giống như con người, nó đa nghiã và có nhiều "sự thực" mà mỗi kẻ thưởng ngoạn có thể tìm ra một sự thực cho riêng mình.
Viết Lịch sử cũng là đi tìm sự thực. Nhưng sự thực lịch sử khác với sự thực văn chương. Sự thực văn chương là sự thực về con người, mà tự ngàn xưa, chưa ai khám phá ra được con người, sự thực, là như thế nào? Vì vậy, không bao giờ nhà văn có thể đạt đến đích, và muôn đời nhà văn sẽ còn tìm cách thể hiện văn chương để đến gần con người hơn. Còn sự thực lịch sử là sự thực về những điều đã xẩy ra, và chỉ có một sự thực lịch sử. Nếu chúng ta cố gắng tìm kiếm, thì sẽ thấy, nếu không, cũng thấy được một phần và người sau tiếp nối để tiến tới lịch sử đích thực.
Tôi vẫn thích sử từ thời trung học, nay làm công việc này, vì tình cờ, hay tất yếu? Có thể trong đầu mình đã tiếm ẩn ý định viết sử, từ lâu rồi, nay có dịp bùng ra. Cái gì đã thúc đẩy sự "bùng ra" ấy, hẳn là khát vọng tìm kiếm sự thực đã quá lâu bị phong toả, bị xuyên tạc, về lịch sử dân tộc mình.
3. Là một người Việt sống ở nước ngoài, bà gặp khó khăn và thuận lợi nào trong việc tìm tư liệu nghiên cứu về nhân vật lịch sử Việt Nam?
Trả lời ngắn gọn thì việc tìm tư liệu để viết lịch sử Việt ở Pháp, có cả khó khăn lẫn thuận lợi: thuận lợi vì ở Pháp, có đủ điều kiện để tra cứu các tài liệu Pháp, nhưng lại khó tìm tư liệu Việt Nam. Nhưng tôi muốn nói thêm một chút về kinh nghiệm làm việc của tôi để gửi đến những nhà văn, nhà nghiên cứu trẻ: Việc đầu tiên khi vào nghề viết, dù viết gì, bạn cũng phải có một tủ sách, tủ sách xấu xí để đọc chứ không phải tủ sách gáy vàng để trưng trong phòng khách. Người buôn bán cần tiền bạc làm vốn, người viết cần một tủ sách trong đầu làm vốn. Tôi thu thập sách cách đây hơn 30 năm và có thói quen, đi đâu, gặp sách nào, thấy mình có thể sẽ cần tới là mua ngay. Tôi lại được hưởng một số sách của các độc giả quý mến, đã qua đời, vì vậy mà tôi có sẵn trong tay nhiều tư liệu tốt. Hoàn cảnh xui khiến, tôi ở gần thư viện quốc gia Pháp, đi bộ 10 phút tới, cũng là một may mắn. Nhưng những năm gần đây, thư viện Pháp đã số hoá rất nhiều sách cũ đưa lên mạng, thành ra mình có thể tìm thẳng trên internet. Chợ sách cũ và những hàng sách cũ, cũng là nơi cung cấp sách xưa, có duyên thì mình gặp. Hai lần về nước năm 1993 và 1997, tôi cũng mua được một số sách quý. Nhưng từ 1997 đến nay, không được về, đành thỉnh thoảng nhờ người thân hoặc bạn văn, là những ân nhân giúp, mà tôi đã có được bộ Thực Lục và bộ Hội Điển, là những bộ sách nền móng, tuyệt đối cần, có thể đọc trên Internet, nhưng làm việc thì rất bất tiện. Tóm lại, đối với một người nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, không được về nước là một khó khăn lớn để tìm kiếm những tư liệu cần thiết.
4.Tại sao bà lựa chọn chủ đề người Pháp và Vua Gia Long mà không phải những vấn đề và nhân vật lịch sử khác?
Sau cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tôi được một người thân của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh trao cho một số tư liệu quý và nhờ tôi nghiên cứu lại về ông. Tôi đã bắt tay vào việc được mấy tháng, thì một chuyện tình cờ đưa đến khiến tôi tạm hoãn viết về Nguyễn An Ninh, để khảo sát về những người Pháp giúp vua Gia Long trước.
Lý do gián tiếp và sâu xa, là đã từ lâu, khi đọc được đâu đó, những mẩu lịch sử về triều Nguyễn, tôi vẫn thấy có nhiều điều không ổn: thí dụ, khi đọc đoạn hai chiến hạm Pháp do Lapierre và Rigault de Genouilly diều khiển, tấn công Đà Nẵng ngày 3/7/1847 trong tập sách Les grands dossiers de L'Illustration, thấy họ trình bầy trận địa bằng tranh vẽ hoành tráng và những bài viết về chiến thắng rực rỡ này. Tôi không hiểu tại sao vua Thiệu Trị lại hèn nhát đánh lén một phái đoàn Pháp vào Đà Nẵng xin thả một giáo sĩ Pháp, khi đang điều đình. Tôi bèn tìm đọc đoạn Thực Lục viết về việc này mới ngã ngửa ra: sự thực trái ngược hẳn: Vị giám mục Lefèbvre mà họ lấy cớ đến xin giải thoát, thực ra đã được vua Thiệu Trị tha cho lần thứ nhì và sai Nguyễn Tri Phương dẫn sang Singapore rồi, nhưng ông ta vẫn trở lại và vua Thiệu Trị lại thả ra lần thứ ba. Hai tầu Pháp mượn cớ đến thám thính, hoạnh hoẹ rồi tấn công bất ngờ, bắn nát năm chiếc thuyền đồng của vua đỗ trong vịnh rồi bỏ đi, khiến vua phẫn uất, mấy tháng sau mất. Sau khi đọc thêm những văn bản của giáo sĩ và những nhân chứng khác, tôi thấy những điều Thực Lục kể là đúng: Lapierre đánh lén một trận Trân Châu Cảng rồi bỏ đi, khiến vua Thiệu Trị mới phẫn uất, mà chết. Và tôi đã viết về cuộc chiến này, nhưng chưa có thì giờ xem lại, nên chưa in.
Sau đó tôi còn đọc những đoạn khác của Thực Lục viết về việc triều đình Tự Đức và Nguyễn Tri Phương đương đầu với Pháp trong 30 năm. Đọc những lời bàn cãi trong triều của các quan, những lời nói và hành động của vua trong mỗi cảnh huống, đều chứng tỏ một chính sách chống ngoại xâm ôn hòa, sáng suốt, và có tổ chức, khác với những điều tôi đã được học về giai đoạn này: các sử gia từ Trần Trọng Kim đến Phan Khoang, đều cho rằng vì vua Tự Đức kém cỏi, bảo thủ, không chịu nghe lời canh tân của Nguyễn Trường Tộ, cấm đạo, bế quan toả cảng, không cho người Âu vào, nên Pháp mới đánh để giải toả việc cấm đạo và được tự do buôn bán... Tất cả những tội "bế quan toả cảng", "cấm đạo" "không canh tân", đều phải xét lại, và phải hiểu cái mà nguời Âu gọi là "tự do buôn bán" có nghiã gì? Các giáo sĩ đã làm gì mà bị cấm đạo?
Những điều này tôi đã thấy từ trước, nhưng cho rằng đó là ngoài địa hạt phê bình của mình, và chờ đợi những sử gia đích thực viết ra.
Đó là hai lý do gián tiếp.
Lý do trực tiếp cũng có hai:
1- Tôi mua được bộ sách Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, (Lịch sử truyền giáo ở Nam Hà 1658-1823) của linh mục Launay. Đây là bộ sách nền móng, tập hợp khá đầy đủ thư từ của các giáo sĩ đến truyền giáo ở Việt Nam, từ 1658 đến 1823.
Đọc những thư của Bá Đa Lộc và các vị thừa sai, mới thấy những điều trước đây tôi được học về Bá Đa Lộc là sai cả: Bá Đa Lộc không giúp gì cho vua Gia Long. Những gì mà ta cho là sự thực lịch sử về thời kỳ đó, đều phiến diện và không phải như thế v.v...
2- Cùng thời điểm đó tôi nhận được bộ sách Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị, do nhà văn Phạm Phú Minh ở Mỹ gửi tặng. Nguyễn Quốc Trị là người đầu tiên tố cáo những gian lận của các sử gia thuộc địa khi họ viết về Việt Nam, đặc biệt về Nguyễn Văn Tường là ông cố của ông, một người yêu nước, và đã bị thực dân bôi nhọ như một nhân vật bán nước.
Hai lý do trực tiếp này thúc đẩy tôi phải viết, viết ngay, vì những điều chúng ta bị những ngòi bút thực dân đầu độc đã thấm quá sâu vào huyết quản, tạo ra một thứ mặc cảm tự ty về dân tộc, từ hơn một thế kỷ nay. Đã đến lúc phải gột rửa.
5. Cách đánh giá của bà và của các sử gia nước ngoài và Việt Nam trước đây về chủ đề này có những khác biệt nào? Theo bà tại sao lại có sự khác biệt ấy?
Cảm ơn Thủy Nguyên đã đặt câu hỏi này, để cho tôi có dịp nói qua về hai chữ đánh giá, hiện nay rất thông dụng.
Tôi không đánh giá gì cả, bởi vì người viết sử chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là trình bầy sự kiện lịch sử. Việc đánh giá là của người đọc. Độc giả đọc một đoạn sử viết về một nhân vật hay một giai đoạn lịch sử, rồi tự rút ra những suy nghĩ hay đánh giá về nhân vật hay giai đoạn lịch sử ấy, và đánh giá luôn cách viết của người soạn sử. Vần đề quan trọng của chúng ta hiện nay, là lầm việc "viết sử" với việc "đánh giá". Vì thế, trong các cuộc phỏng vấn, người ta không hỏi những nhà được mệnh danh là sử gia ông biết gì về nhân vật hay giai đoạn lịch sử này, mà thường hỏi ông "đánh giá" gì về nhân vật lịch sử này, về giai đoạn kia. Và vị "sử gia" được hỏi cứ thao thao bất tuyệt "đánh giá" về một vấn đề mà đôi khi ông ta không biết.
Triều đại cuối cùng nhà Nguyễn đã bị "đánh giá" hoàn toàn sai lạc từ khi "sử gia" Trần Huy Liệu viết những lời nhục mạ phũ phàng nhà Nguyễn.
Vần đề "đánh giá" không chỉ có trong điạ hạt lịch sử mà dàn trải trên toàn bộ các tác giả văn học, thí dụ người ta "đánh giá lại" Khái Hưng, Nhất Linh, Vũ Trọng Phụng... như thể các ông Khái Hưng, Nhất Linh, Vũ Trọng Phụng nằm dưới mộ, chờ đợi và hãnh diện được một ông chủ tịch hội này, hội kia cấp cho tấm giấy chứng nhận hạnh kiểm tốt. Các nhà văn lớn, mình đọc họ thì bổ ích cho mình, mình không đọc họ, họ chẳng mất gì, đời sau sẽ đọc họ. Họ có vĩnh cửu trước mắt, còn các ông lý trưởng, chánh tổng văn học chỉ có cái vắn vủi của một cuộc đời.
Khi vua Minh Mạng lập Quốc sử quán và lệnh cho các quan viết sử đi khắp các nơi trong nước để thu thập tài liệu, viết các bộ Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Liệt Truyện... nhà vua đã tế nhị không đọc, tức là ông không kiểm duyệt bộ sử đồ sộ này. Vì thế mà ta thấy có những trang viết rất tự do, ghi cả những lời Minh Mạng "tâm sự" những lúc ông không tự tin ở mình, hoặc cho là mình đã quyết định sai lầm, hoặc cho là cách cai trị của mình quá nghiêm ngặt, đó là những điểm chứng tỏ sử quan có đủ tự do để cầm bút, cho nên phần viết về Minh Mạng của Thực Lục được các học giả đánh giá là trung thực nhất. Xin nói thêm điều nữa: các sử thần triều Nguyễn, không "đánh giá" cũng không tâng bốc vua và triệt hạ đối thủ, trừ vài chữ miệt thị như ngụy, giặc, họ chép lại trung thực những sự kiện đã xẩy ra, lời nói và hành động của vua cũng như của phe đối lập.
Lịch sử viết theo đúng quy luật như thế, tôi nghĩ rằng thời đại chúng ta còn kém xa thời đại Minh Mạng. Chúng ta chưa có tác phẩm lịch sử đúng nghiã mà chỉ có sự "đánh giá" lịch sử, tức là người ta tuyên bố như thế này, thế kia về một nhân vật lịch sử: người ta "đánh giá lại Gia Long", người ta đánh giá "Ngô Đình Diệm". Tóm lại, người ta tự đứng trên lịch sử để phát biểu và không cần biết những sự thực xoay quanh những nhân vật lịch sử này như thế nào. Người ta không tìm hiểu, nghiên cứu, mà tùy hứng "đánh giá": Người ta kết tội Phan Thanh Giản phản động rồi sau "đánh giá lại" là "yêu nước".
Người đọc chờ đợi những cuốn sách nghiên cứu sâu sắc về Hiền Vương (Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần), Gia Long, Minh Mạng, Võ Tánh, Ngô Tòng Châu, Lê Văn Duyệt... với những chứng cớ tỏ rõ các ông là người phản quốc, trước khi rút tên các ông khỏi những đường phố Sài Gòn.
Trở lại với cuốn "Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long" của tôi, đó là cuốn sách viết về lịch sử bằng cách phản biện lại những lập luận của những ngòi bút thuộc địa về giai đoạn lịch sử này, từ Bissachère, đầu thế kỷ XIX, đến các sử gia học giả nổi tiếng như Maybon, Cadière, đầu thế kỷ XX mà ảnh hưởng những xuyên tạc của họ đã hoàn toàn bao trùm lên các ngòi bút Pháp Việt. Bằng những tài liệu gốc, tôi chứng minh họ sai lầm trong lập luận và họ dùng những chứng từ bịa đặt.
Tại sao tôi chọn Gia Long? Vì tất cả những bịa đặt quan trọng của họ bắt đầu từ thời Gia Long. Nói khác đi, vấn đề với nước Pháp bắt đầu từ cuộc chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn:
Khi Nguyễn Huệ đã diệt xong hai chú và các anh, em của Nguyễn Ánh, đang truy lùng Ánh; để tránh nạn tuyệt tự, năm 1783, Ánh phải trao đứa con 3 tuổi cho giám mục Bá Đa Lộc đem đi trốn. Hai năm sau, Ánh lại bị thảm bại nữa, ở bước đường cùng, mới quyết định giục Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Mối liên lạc giữa Nguyễn Ánh và người Pháp có từ đây. Giai đoạn lịch sử này, được người Pháp phản ảnh lại trong sách, nói gọn là: Nguyễn Ánh hoàn toàn nhờ Bá Đa Lộc và những người Pháp đến giúp mới trung hưng được nhà Nguyễn; người Pháp thiết lập quân đội, xây dựng thành trì, đóng tầu, đúc súng... Tóm lại, trước khi người Pháp đến, ta không có gì cả, chính người Pháp đã đem "văn minh" cho chúng ta và dựng lại ngai vàng cho nhà Nguyễn.
Tôi phản bác toàn bộ lập luận này, và chứng minh rằng Bá Đa Lộc không giúp gì về quân đội cũng như khí giới cho Nguyễn Ánh và những người lính Pháp được coi là kỹ sư xây dựng thành Gia Định, tổ chức quân đội và lập công trong cuộc chiến này, thực ra chỉ là những người lính đào ngũ đánh thuê, không đủ khả năng làm những việc lớn lao như thế. Tất cả mọi công trình xây dựng, đóng tầu và luyện tập quân sự của Nguyễn Ánh nằm trong tay người Việt dưới sự điều khiển của chính Nguyễn Ánh. Khi trình bầy những nguồn chứng, tôi đưa độc giả vào môi trường và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế Kỷ XIX, qua ngòi bút của những người ngoại quốc đã sống trong thời ấy, chính họ mô tả chân dung Gia Long, chính họ mô tả Gia Định kinh tức Sài gòn xưa, như thế nào, chính họ kể lại cuộc chiến khốc liệt giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Tôi chứng minh kinh đô đầu tiên của nhà Nguyễn trung hưng được xây dựng trong điều kiện nào, với ai, và lịch sử Gia Định kinh liên quan đến cuộc Nam tiến của dân tộc ta như thế nào, vv...
Từ đó độc giả sẽ hình dung được công lao của nhà Nguyễn trong suốt dọc chiều dài 300 năm lịch sử: Ta có miền Nam là nhờ các chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn đánh tan tầu Hoà Lan ở Cửa Việt năm 1585 và ở cửa Thuận An năm 1644, đuổi quân Anh ra khỏi đảo Côn Lôn năm 1702. Vì thế mà các tầu Tây phương rất gờm không dám gây sự với nước ta.
Tóm lại, nếu nói về một sự khác biệt, thì sử gia thuộc điạ đưa ra một câu chuyện lịch sử mà người Pháp làm chủ, cầm đầu cuộc chiến chống Tây Sơn, khai hoá dân tộc Việt. Nhờ họ mà ta mới có ngày nay.
Tôi tìm lại sự thực lịch sử bị chôn vùi, trong đó người Việt là chủ thể mọi động tác, từ cuộc nội chiến tương tàn, qua sự trùng tu và xây dựng đất nước, phòng chống ngoại xâm. Đó là sự khác biệt giữa họ và tôi.
Cũng nên nói thêm: Gia Long và Minh Mạng đã làm cho nước Việt Nam thống nhất trở thành một cường quốc ở châu Á, điều này chính các tác giả thuộc địa như Gosselin, Doumer viết ra. Khi Minh Mạng thấy rõ nước mình đã có đủ sức mạnh và uy tín, ông đổi chính sách ngoại giao, gửi phái đoàn sang Âu Châu và Pháp xem xét tình hình, nhưng ông bất ngờ mất vì ngã ngựa, nên mọi việc phải đình chỉ.
Thiệu Trị tiếp tục chính sách cởi mở, thả dần tất cả những giáo sĩ bị bắt, và việc cấm đạo bớt nghiêm ngặt hơn. Đúng lúc đó thì ngày 3/7/1847, Lapierre và Rigault de Genouilly đánh lén, bắn nát 5 chiếc tầu chiến bọc đồng của vua ở cửa Đà Nẵng rồi bỏ đi, đưa đến cái chết của vua và mọi giao thương với nước Pháp bị gián đoạn, cho đến khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng ngày 1/9/1858.
6. Liệu có thể xem nghiên cứu này của bà là một nghiên cứu về mối quan hệ Việt – Pháp trong giai đoạn đầu? Nó có ảnh hưởng thế nào đến quan hệ Việt-Pháp sau đó?
Không thể nói đến quan hệ Pháp-Việt, vì quan hệ đó chưa từng xẩy ra, chỉ có trong sự tưởng tượng của các ngòi bút thuộc điạ. Nó chỉ có thể có, nếu Louis XVI, thi hành hiệp ước Versailles, 1787, gửi quân và tầu sang Việt Nam giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn, nhưng việc này đã không xẩy ra. Thực là may mắn cho Pháp, bởi nếu lúc đó, Pháp đem sang 4 trung hạm với 1500 lính, thì có nguy cơ bị Quang Trung nuốt chửng vì ông vừa dẹp tan 20 vạn quân Thanh chớp nhoáng trong mấy ngày. Tóm lại, không có quan hệ Việt-Pháp thời kỳ chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn.
Sau khi thống nhất đất nước, Gia Long hết sức phòng ngừa ngoại bang, ông từ chối hết, không để cho Anh, Pháp lập thương điếm và có một đặc quyền nào, mặc dù họ đã đe dọa. Minh Mạng tiếp tục chính sách đó, bởi vì các vua thừa biết mánh lới của Anh và Pháp: họ xin thông thương "buôn bán" tức là xin lập một cơ sở ở trên đất nước ta trước, rồi dùng nó làm bàn đạp để xâm lăng sau.
7. Bà sẽ tiếp tục có thêm các nghiên cứu về lịch sử Việt Nam? Bà dự định sẽ nghiên cứu về chủ đề gì?
Hiện hồ sơ Bá Đa Lộc còn nhiều điều tôi chỉ mới nói qua, vì quá dài, không thể đưa hết vào cuốn sách này, nhưng có những điểm quan trọng cần phải đào sâu, không thể để cho những xuyên tạc trắng trợn của Faure viết về Bá Đa Lộc, năm 1891, tiếp tục ảnh hưởng đến những người nghiên cứu, nên ta phải viết lại hồ sơ này. Nhất là về bản hiệp ước 1787, gọi là hiệp ước cứu trợ do Bá Đa Lộc ký với De Montmorin mà tôi cho rằng Bá Đa Lộc đã tự biên, tự diễn không làm theo chỉ thị của Nguyễn Ánh và triều đình như ông đưa ra chứng cớ. Tất nhiên còn hồ sơ Nguyễn An Ninh, tôi cũng sẽ phải hoàn tất.
Thời kỳ Pháp thuộc, là một mảng lịch sử dài, mà thế hệ của Thuỷ Nguyên sẽ phải gánh vác việc nghiên cứu lại.
8. Khi làm nghiên cứu lịch sử, bà có còn dành thời gian cho nghiên cứu và phê bình văn học nữa không?
Khi làm một việc gì thì tôi phải ngừng việc khác, thí dụ khi trả lời Thuỷ Nguyên đây, tôi phải ngừng việc viết sử trong 3 ngày. Phê bình văn học là điạ hạt của tôi, viết phê bình trở thành thói quen, tôi viết khá nhanh, khi có thì giờ trở lại ngay được. Sau cuốn sách này có lẽ tôi phải chia thì giờ làm hai: vừa viết sử, vừa thỉnh thoảng dành vài ngày để hoàn tất cuốn sách về Phê bình văn học thế kỷ XX, chỉ còn vài chương là xong. Cuốn này cũng là một cuốn sách nền móng, tôi viết về những khuynh hướng chính của phê bình văn học trong thế kỷ hai mươi, bây giờ cũng là chậm rồi, nhưng chậm còn hơn không. Mình thiếu nhiều sách cơ bản lắm, vì vậy nhiều người viết phê bình không nắm rõ nội dung các lý thuyết văn học, cứ đưa tên tác giả này, tác giả kia, cuốn sách này cuốn sách kia, tân kỳ lắm, với cả trích dẫn nữa, nhưng khi đọc những lời họ viết, và những câu văn, thơ dở họ trích mà khen hay, thì thấy họ chưa hiểu rõ những lý thuyết mà họ đề cập.
9. Khi Bộ giáo dục định tích hợp môn Lịch sử với An ninh quốc phòng và Giáo dục Công dân, vấn đề dạy và học môn lịch sử Việt Nam lại được đặt ra. Theo bà, để dạy môn Lịch sử trong nhà trường cũng như truyền bá lịch sử trong xã hội, VN cần có những thay đổi nào?
Tôi biết chắc Lịch sử là gì: Lịch sử là môn học về những sự kiện lịch sử đã xẩy ra và những nhân vật đã làm nên lịch sử của một dân tộc.
Còn về môn An ninh quốc phòng, vì xa nước quá lâu, tôi không rõ lắm khái niệm này, nhất là trong học đường, bởi các nước khác, người ta không dạy môn này, học trò muốn học thì... xem phim James Bond. Vậy tôi chỉ phỏng đoán hai nghiã:
- Nếu An Ninh Quốc Phòng là bảo vệ bờ cõi, thì nó không thuộc điạ hạt dân sự mà thuộc phạm vi Bộ Quốc Phòng, chỉ những ai đi quân dịch mới có dịp học.
- Nếu An Ninh Quốc Phòng giống như Phòng Nhì (Deuxième Bureau) của Pháp thời trước, và DST bây giờ, hoặc FBI và CIA của Mỹ cộng lại, thì môn An Ninh Quốc Phòng với môn Sử cũng giống nhau đấy, vì cùng điều tra sự thực cả, tuy đối tượng có khác: Đối tượng Sử học là những người có công với tổ quốc. Còn đối tượng An Ninh Quốc Phòng là những kẻ phá hoại, khủng bố. Ghép hai môn học làm một, khác nào để các ông Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ ngồi chung với ông Ben Laden, có sợ học trò lầm người không? Cổ kim chưa ai dám thử như vậy.
Còn môn Giáo dục công dân, là học cách làm người công dân tốt, vậy tuỳ theo tiêu chuẩn đề ra: thế nào là một công dân tốt? Nếu giáo trình dạy người công dân tốt phải tuân theo lời dạy của ai hay của một chính đảng nào, thì lại trái ngược với nguyên tắc sử học: nhà viết sử phải hoàn toàn độc lập, chỉ viết sự thực, không lệ thuộc vào một cá nhân hay một đảng phái nào. Việc kết hợp thứ hai này cũng có chỗ khiên cưỡng.
Cho nên giải pháp tổng hợp ba môn này với nhau, theo tôi, rất khó thực hiện.
Lịch sử thuộc khoa học nhân văn, như tất cả các môn học khác, nó không thể là dụng cụ để tuyên tuyền bất cứ điều gì, cho ai. Nó chỉ có môt nhiệm vụ duy nhất là dạy cho học sinh, sinh viên biết về quá khứ lịch sử của dân tộc mình.
Về việc dạy sử, trước hết phải có một bộ sử giáo khoa phổ thông soạn theo đúng nghiã của lịch sử, tức là không gian dối, không tuyên truyền như lối người Pháp thực dân viết về giai đoạn lịch sử Pháp thuộc để biện hộ cho chính sách thực dân của họ. Tôi không biết hiện nay trong nước học sinh được học những sách sử nào. Cho tới bây giờ, bộ sử của Trần Trọng Kim vì ông dùng gần như hoàn toàn tài liệu của Thực Lục, cho nên vẫn là cuốn sử ít sai lầm nhất. Tôi không biết Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim có được đưa vào sách giáo khoa không? Tuy nhiên nó là bộ sử soạn cách đây gần 100 năm rồi, chẳng lẽ, trong một thế kỷ, chúng ta chưa viết được một bộ sử nào khác, xứng đáng để cho học trò học. Nếu chưa có thì nên bắt tay ngay, từ giờ phút này.
10. Thay đổi góc nhìn lịch sử trong xã hội sẽ có tác động như thế nào đến sự phát triển của xã hội?
Lịch sử, như tôi vừa nói, là môn học về những nhân vật và những sự kiện lịch sử. Cho nên chỉ có một góc nhìn duy nhất là hướng về sự thực để viết sử, nếu có sự thay đổi là thay đổi ấy: Phải coi Lịch sử không phải là tuyên truyền, tung hô, cũng không phải là "đánh giá", miệt thị, mà là sự trung thực và sự thực. Các sử thần nhà Nguyễn đã đáp ứng hai yếu tố này, trong bộ Thực Lục, cho tới thời vua Tự Đức. Chỉ sau khi người Pháp chiếm nước ta, lúc đó các sử thần phải viết dưới sự kiểm soát của chính quyền thuộc điạ. Vậy viết lại lịch sử giai đoạn nhà Nguyễn, dù khó, vẫn có thể làm được, vì ta đã có bộ Thực Lục là nguồn tư liệu nền móng.
Cái khó khăn là từ sau khi Pháp đặt khâm sai ở Huế, kiểm soát mọi việc, các sử thần bị kiểm duyệt, chúng ta không còn có sử liệu đáng tin cậy làm nền tảng cho công việc nghiên cứu. Vậy những ai tha thiết với lịch sử nên chú ý sưu tầm tất cả những thông tin đáng tin cậy để làm tài liệu lịch sử, như văn bản viết tay của một ông tướng hay một nhân vật cầm quyền, hay một chứng nhân quan trọng, v.v... Thông tin trong sách Bên thắng cuộc của Huy Đức, có những điều dùng được, khi tác giả đề rõ xuất xứ, nhưng thông tin trong Đèn Cù của Trần Đĩnh lại khó dùng, vì ông thường nói bâng quơ: nghe người này, người kia kể, do dó, không dùng làm tài liệu lịch sử được. Nói tóm lại, tất cả mọi người chúng ta đều nên bắt tay vào việc xây dựng lại sự thực lịch sử của nước mình, thì mới mong thoát khỏi tình trạng chậm tiến, đáng xấu hổ hiện nay về lịch sử, trước tiền nhân và trước các dân tộc khác.
Thuỷ Nguyên hỏi: Thay đổi góc nhìn lịch sử trong xã hội sẽ có tác động như thế nào đến sự phát triển của xã hội? Tôi xin trả lời:
Góc nhìn lịch sử thì chỉ có một, tức là hướng về sự thực; nhưng phải thay đổi cách viết lịch sử:
Bỏ hẳn lối viết tuyên truyền, tung hô, vì lịch sử không để tuyên truyền cho bất cứ điều gì, tung hô bất cứ một nhân vật lịch sử nào.
Bỏ hẳn lối viết mạ lỵ, như ông Trần Huy Liệu viết về nhà Nguyễn, vì lịch sử không phải là chỗ để mạ lỵ tiền nhân.
Là hậu sinh, chúng ta đứng trung lập, không bênh bên nào trong hai cuộc tương tàn: Trịnh-Nguyễn và Nguyễn Ánh-Tây Sơn.
Khi học sinh biết rõ lịch sử đích thực của dân tộc mình trong 300 năm nay, biết những người đi trước đã làm gì để mở rộng đất nước, gìn giữ từng mảnh đất, không để cho ngoại bang nhòm ngó trong khi người Tây phương không ngừng tìm mọi cách để chiếm hữu thuộc địa ở Á Châu, thì họ sẽ biết kính trọng đất nước và tìm cách sống làm sao cho xứng đáng với tổ tiên và dân tộc. Tóm lại, chỉ khi biết rõ cha ông mình là ai, con người mới có thể trưởng thành và tiến bộ.
Chúng ta không từ lòng đất chui lên, cũng không từ trên trời rơi xuống năm 1945, mà chúng ta có một lịch sử. Lịch sử gần cận là ba trăm năm nay. Không biết rõ lịch sử nước mình một yếu kém, một bất hạnh, là kẻ mồ côi.
Sự phát triển xã hội nằm trong sự phát triển tri thức và nhân cách. Tất cả những sự tự ti mặc cảm, những sự vọng ngoại, đều phát xuất từ vấn đề không biết rõ lịch sử nước mình. Sự đó dẫn đến tình trạng chung: vọng ngoại, văn chương nước mình, không đọc. Còn tác giả ngoại quốc, đôi khi chẳng ra gì, cũng dịch dập dạp để bán cho độc giả ham của lạ. Khi viết, lời hay, ý đẹp của nhà văn nước mình không trích, chỉ trích những lời đôi khi rất tầm thường của một người Anh, người Pháp, người Mỹ, nổi tiếng, nào. Chúng ta không nên quên rằng, tất cả những lời, được nói, được viết, đều đã có người nói trước rồi. Vì vậy tránh thần tượng hoá những câu nói, mà nên đào sâu vào nội dung của tác phẩm để tìm hiểu tác giả và con người. Lời của Victor Hugo, của Nhất Linh, của Phan Khôi... vì vậy, có giá trị ngang nhau vì họ cũng chỉ nói lại những điều họ đã đọc được của người đi trước. Nói như thế, không có nghiã là ta bế quan tỏa cảng không đọc sách nước ngoài, ngược lại, ta cần phải trau dồi một ngoại ngữ, để đọc được sách trong nguyên bản. Chỉ khi đó, ta mới có thể so sánh và thấy cái hay của ngôn ngữ nước mình, đồng thời hiểu cái hay của ngôn ngữ nước khác. Chỉ khi nào ta có đủ những người thông thạo thực sự một ngoại ngữ, lúc đó ta mới có dịch giả đích thực, bởi vì chính ta là thành viên cấu tạo nên bộ phận dịch giả của nước ta. Giết người là sát nhân. Dịch bậy là sát sách.
Viết văn là viết chữ. Nhà văn viết tiếng Việt, trước hết phải biết rõ chữ nước mình. Ta có thể học được ở nhà văn ngoại quốc, kỹ thuật viết như thế nào, tức là các cách thể hiện văn chương như tôi đã nói ở trên. Trái lại, chữ Pháp, chữ Anh, không cho ta biết thêm gì về chữ Việt, vì mỗi thứ chữ có cấu trúc khác nhau, có lịch sử chữ khác nhau. Ta lại càng không học được gì qua các bản dịch dở, lai căng, tiếng Việt không ra tiếng Việt. Về kỹ thuật viết, ta cũng có thể học được qua điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, ca vũ... tất cả mọi nghành nghệ thuật bây giờ đều thể hiện theo kỹ thuật mới cả. Nhưng về chữ Việt, ta chỉ có thể học bằng cách đọc tác phẩm của những nhà văn Việt Nam và nhận xét ngôn ngữ người mình đang nói, mỗi từng lớp xã hội, mỗi ngành nghề, mỗi gia đình, mỗi cá nhân, đều có một lối nói, một thứ tiếng riêng. Sự yếu kém, nhạt nhẽo hiện nay trong ngôn ngữ của các nhà văn Việt, xuất phát từ sự coi thường tiếng Việt, và học đòi các nhà văn ngoại quốc qua các sách dịch dở.
Sau cùng, sự phát triển xã hội tuỳ, thuộc vào sự phát triển nhân cách mỗi cá nhân.
Khi người Pháp chiếm được nước ta, họ tự hào là đã chiếm được một cường quốc vào bậc nhất ở Châu Á. Tôi không tin là Doumer hay Gosselin viết xạo điều này. Vậy ta thử tìm hiểu tại sao?
Tại vì Gia Long tự học, làm việc suốt ngày, đêm ngủ 6 tiếng, ăn cơm với cá mắm, xắn tay đào hào, đắp luỹ cùng với tướng sĩ. Tại vì Minh Mạng mua cân đường, cân nhãn cũng ghi vào Hội điển. Tại vì Tự Đức tôn trong sự phân quyền giữa hành pháp và tư pháp: khi bộ hình đã xử án, vua cũng không dám can thiệp. Tại vì những người trong hoàng gia không được phép giao du mật thiết với các quan, tránh sự đút lót, lạm quyền. Tại vì anh, em, cha, con không được làm quan cùng một chỗ, tránh sự thông đồng. Tại vì những đại thần như Nguyễn Tri Phương, khi thắng trận, được vua ban cho một bài thơ hay một chiếc áo gấm, khi thua trận bị xuống chức, bị luận tội...
Khi ta thấy những người như Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu... một đời hy sinh cho đất nước mà không có được một ngôi nhà khang trang để ở, thì hẳn ta phải ngần ngại khi muốn làm đại gia vì cha chú ta là đại thần.
Khi ta tìm trong bộ sách đồ sộ nhiều nghìn trang của các sử gia triều Nguyễn, mà không nhặt ra được một hàng tâng bốc nhà vua, thì ta phải nghĩ lại, khi viết những điều xu nịnh, trong những trang được gọi là lịch sử.
Nếu ta lạnh lùng làm ngơ để quân Tầu chiếm Hoàng Sa, thì ta phải chạnh lòng nhớ đến chúa Nguyễn đã tạo đội Hoàng Sa, để giữ quần đảo Hoàng Sa, đội Bắc Hải để kiểm soát Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc, từ thế kỷ XVII.
Vì vậy, khi đã biết sử, ta không thể sống tồi tàn, bệ rạc, ăn cắp của công, vì cha ông ta, cách đây mấy trăm năm đã sống có nhân cách, sống tử tế, sống lương thiện.
© Copyright Thụy Khuê 2015