Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012

Các loại hoạt động của chính phủ (Kinh tế công cộng)

Các loại hoạt động của chính phủ

19-8-2012 (VF) — Vai trò chủ yếu của chính phủ là bảo đảm một khuôn khổ luật pháp để tất cả các hoạt động kinh tế diễn ra. Chúng ta có thể chia hoạt động của chính phủ ra làm ba loại: a) sản xuất hàng hóa và dịch vụ; điều tiết và trợ giúp các nhà sản xuất tư nhân; b)mua hàng hóa dịch vụ, từ tên lửa cho đến hoạt động vệ sinh đường phố; c) phân phối lại thu nhập, nghĩa là cấp tiền cho những nhóm người nhất định nhằm giúp họ chi tiêu khá hơn là nếu không có sự trợ giúp đó; những khoản chi này gọi là thanh toán chuyển giao (transfer payment), bao gồm phúc lợi và bảo hiểm xã hội.
Ba loại hoạt động này – sản xuất, mua và phân phối lại – là cách tiện lợi để phân loại các khoản chi tiêu và hoạt động rộng lớn của chính phủ. Song nó lại không phù hợp với cách thức chính phủ tổ chức ngân sách hay phân bổ trách nhiệm giữa các bộ của mình, như thương mại, dịch vụ y tế, nội vụ, v.v. Hơn nữa, hầu hết các hoạt động của chính phủ do các cấp bang và địa phương cũng như cấp bang thực hiện, cùng với tầm quan trọng tương đối của các khoản chi tiêu đủ các loại của cấp bang, đều được thay đổi theo thời gian.
Sự phức tạp cuối cùng là bản chất của một số khoản chi tiêu của chính phủ không rõ ràng. Ví dụ, các khoản trợ cấp của chính phủ cho dù nông trại quy mô nhỏ có thể coi là trợ cấp sản xuất hoặc trợ cấp mang tính phân phối lại. Tiền hưu trí trả cho quân nhân, nghỉ hưu thường được coi là thanh toán chuyển giao, nhưng nếu khoản này được xem là một phần chi phí quốc phòng thì sẽ hợp lý hơn, cũng giống như việc trả tiền hưu trí của một hang tư nhân được tính vào chi phí lao động.
Do đó, việc miêu tả mang tính định lượng những hoạt động của chính phủ là một việc vô cùng to lớn.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật


Đảm bảo hệ thống pháp luật

19-8-2012 — Một hoạt động quan trọng của chính phủ nhưng lại chiếm phần  chi phí rất nhỏ, là hình thành khuôn khổ luật pháp cho các hãng và các cá nhân tham gia vào các hoạt động kinh tế. Các nhà kinh tế và các triết học thường cố tưởng tượng  xem cuộc sống sẽ ra sao nếu hoàn toàn không còn chính phủ nữa. Thiếu luật pháp quy định quyền tài sản thì chỉ có thể dung sức mạnh mới làm cho người ta không ăn cắp lẫn của nhau. Thiếu khả năng bảo vệ tài sản thì các cá nhân ít có động cơ tích lũy tài sản. Và nhất định các hoạt động kinh tế sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ làm được nhiều việc hơn là chỉ có bảo vệ quyền tài sản. Nó làm cho hợp đồng giữa các cá nhân có hiệu lực. Nó cũng đã áp đặt những hạn chế đối với các loại hợp đồng đã có hiệu lực về mặt pháp lý. Luật phá sản của chúng ta hạn chế được vấn đề mắc nợ của các nhà đầu tư. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm đã có tác động quan trọng đến chất lượng sản phẩm . Luật chống độc quyền đã khuyến khích cạnh tranh giữa các hãng với nhau: luật này hạn chế được việc sát nhập, thôn tính và những thông lệ bất công khác trong kinh doanh.
Hiệu lực của hệ thống luật pháp của chúng ta rất sâu rộng, nhưng những chi tiêu cho việc vận hành một hệ thống tòa án và duy trì kỷ cương, trật tự lại khá nhỏ bé: nếu cộng cả chi phí cho cảnh sát và nhà tù thì tổng chi tiêu chỉ cao hơn 4% một chút tổng số chi tiêu của chính phủ là cho quản lý hành chính chung, các hoạt động lập pháp và hành pháp (1).

(1) Năm 1985, năm cuối cùng của các con số so sánh về chi tiêu của liên bang, bang , địa phương, chi tiêu đó như sau: cho hoạt động hành chính lập pháp và tư pháp là 23 tỷ đô la; cho cảnh sát và các nhà tù là 39 tỷ đô la. Xem: Điều tra về kinh doanh hiện hành năm 7-1987.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật


Chính phủ và sản xuất

26-8-2012 (VF) — Ngoài việc đảm bảo khuôn khổ luật pháp cho các cá nhân và các hãng hoạt động, chính phủ ngày càng có vai trò tích cực trong các quyết định sản xuất. Chính phủ chỉ tự sản xuất ra một khối lượng nhỏ hàng hóa và dịch vụ, song lại có tác động lớn đối với các quyết định sản xuất thông qua sự điều tiết, thông qua thuế và trợ cấp để có thể làm thay đổi hành vi của các hãng tư nhân. Chính phủ có nhiều hoạt động đa dạng. Chính phủ có thể không thỏa mãn với hành vi cụ thể của các hãng, chẳng hạn như làm ô nhiễm môi trường. Có thể phải quan tâm đến sự độc quyền của một số hãng. Các nhóm lợi ích cụ thể có thể thuyết phục quốc hội rằng họ xứng đáng được giúp đỡ. Khu vực tư nhân có thể không cung cấp nổi một số hàng hóa và dịch vụ nào đó được cho là rất quan trọng.
Sản xuất hàng hóa và dịch vụ
Một trong những điểm khác nhau chủ yếu giữa Hoa Kỳ và nhiều nước Tây Âu là chính phủ Hoa Kỳ có vai trò hạn chế với danh nghĩa là người sản xuất hàng hóa dịch vụ. Hiến pháp Hoa Kỳ giao cho chính phủ liên bang trọng trách quản lý dịch vụ bưu điện và in tiền. Dịch vụ bưu điện của Hoa Kỳ độc quyền trong việc cung cấp thư tín loại một, nhưng trên 50% bưu kiện và thậm chí với tỷ lệ cao hơn nữa về thư tín tốc hành là do hãng tư nhân đảm nhiệm.
Ở Hoa Kỳ, chính quyền địa phương có trách nhiệm chủ yếu đối với giáo dục: gồm 90% học sinh cấp 1 và cấp 2, và 80% học sinh trung cấp, cao đẳng được tuyển vào các trường công lập.
Nhiều hoạt động sản xuất của chính phủ cũng tương tự như chính các hoạt động do hãng tư nhân thực hiện. Điện vừa do các doanh nghiệp của chính phủ (mà nổi tiếng nhất vẫn là hãng Tennessee Valley Authority) vừa do các hãng tư nhân cung cấp. Chính phủ cũng bán điện như các hãng tư nhân vậy. Điểm khác nhau giữa các doanh nghiệp của chính phủ và các doanh nghiệp tư nhân đôi  khi không rõ ràng. Chính phủ có thể làm chủ trên 50% của một hãng, nhưng lại cho nó hoạt động hoàn toàn như một hãng tư nhân. Ở Hoa Kỳ, chính phủ đã thành lập một số doanh nghiệp. Đó là Amtrak điều hành hệ thống đường sắt chở hành khách; là Comstat về sử dụng hệ thống vệ tinh trong thương mại. Những hãng này cũng hoạt động như những hãng tư nhân.
So sánh khu vực công cộng và tư nhân ở nhiều nước khác nhau, chúng tôi thấy rằng một số ngành thường rơi vào khu vực công, còn các ngành khác thì ít khi. Nông nghiệp là một ngành tỏ ra khó thuộc khu vực công. Mặt khác, ở hầu hết các nước, ngành điện thoại, đường sắt, ít nhất một phần của phát thanh và truyền hình thuộc khu vực công. Ở một số nước như nước Anh, chính phủ sản xuất thép và than. Ở nhiều nước khác, hệ thống ngân hàng do chính phủ làm chủ và vận hành; còn ở Hoa Kỳ, chính phủ điều tiết sát sao, song do tư nhân làm chủ (1).
Quá trình chuyển các doanh nghiệp tư nhân thành các doanh nghiệp của chính phủ gọi là quốc hữu hóa; quá trình chuyển doanh nghiệp chính phủ thành doanh nghiệp tư nhân gọi là quá trình tư nhân hóa . Từ năm 1982 đến năm 1986, chính phủ Anh đã thực hiện làn sóng tư nhân hóa: chính phủ đã chuyển các hãng điện thoại, khí đốt tự nhiên và dầu thành các hãng tư nhân mới thành lập (trong đó, chính phủ nắm một số cổ phần). Năm 1986, nước Pháp bắt đầu việc bán, được coi là lớn nhất từ lúc trước đến lúc đó, các xí nghiệp công cộng cho tư nhân, trong đó bao gồm nhiều xí nghiệp được quốc hữu hóa (khi đảng xã hội cầm quyền) năm năm trước đó.
Sản xuất của chính phủ  (giống như của mọi hãng) được đo bằng chênh lệch giữa giá trị sản lượng và giá trị vật liệu mua vào, được gọi là giá trị gia tăng. Nhưng giá trị sản lượng ở các hãng tư nhân được đo bằng giá trị hàng hóa và dịch vụ thực hiện, còn hầu hết các hàng hóa do khu vực công làm ra không được bán, mà sử dụng trực tiếp trong khu vực này hoặc cho không. Do không có giá thị trường để đánh giá những mặt hàng này, chúng phải đánh giá theo chi phí đầu vào để làm ra chúng . Như vậy, khi giá trị gia tăng của doanh nghiệp tư nhân bằng tiền công , tiền trả lãi và lợi nhuận, thì giá trị sản phẩm do chính phủ làm ra bằng tiền công cộng với tiền lãi sẽ. Hãng nào quyết định trả cho công nhân của mình cao hơn 5% tiền công (mà không tăng năng suất tương ứng) thì sẽ thấy giá trị gia tăng của mình không thay đổi: tiền công sẽ tăng 5%, nhưng tiền lãi sẽ giảm đi một khoản tương ứng. Nếu chính phủ cũng quyết định trả tiền công cho công nhân của mình thêm 5%, nhưng giá trị đầu ra được đo bằng giá trị đầu vào, nên khoản tăng tiền công sẽ là 5% tăng sản lương.
Vì những vấn đề đó, nhiều nhà kinh tế cho rằng có thể có được bức tranh khá hơn về quy mô của chính phủ với tư cách là người sản xuất bằng cách nhìn vào việc sử dụng nhân công của chính phủ. Năm 1986, có 17 triệu người làm việc trong khu vực công cộng (kể cả lĩnh vực giáo dục và quốc phòng) (2), chiếm 15,3% số việc làm . Con số này lớn gấp hai lần so với năm 1930, nhưng từ năm 1980 giảm xuống chút ít. Việc mở rộng khu vực công cộng đã diễn ra liên tục với nhịp độ liên tục cho đến năm 1970. Con số này tăng lên nhanh chóng dưới chính quyền Hoover (1929 – 1933) cũng như khi thi hành chính sách kinh tế xã hội mới dưới thời chính quyền Roosevelt (1933 – 1945). Mặc dù nhịp độ có giảm xuống đôi chút trong những năm tháng của Eisenhower, song quy mô của nó không hề giảm cho đến chính quyền Nixon và Ford, và tiếp tục giảm dưới chính quyền Carter và Reagan.
Trợ cấp sản xuất 
Trong các ngành nghề mà chính phủ không phải là người sản xuất cũng như người tiêu dùng, chính phủ vẫn có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quyết định của các nhà sản xuất tư nhân. Sự ảnh hưởng này thông qua các khoản trợ cấp và thuế (cả hai khoản này đều trực tiếp hoặc gián tiếp) và thông qua các điều tiết.
Các chương trình nông nghiệp
ở Hoa Kỳ, những khoản trợ cấp trực tiếp quan trọng nhất là trợ cấp dành cho nông nghiệp. Năm 1986 tăng lên 26 tỷ, so với 7 tỷ năm 1980. Hầu hết khoản  này chính phủ dùng để mua nông phẩm nhằm giữ giá nông phẩm ở mức cao. Trong những năm 1980, trợ cấp cho nông nghiệp tiếp tục tăng. Năm 1986, chi của chính phủ cho sản xuất ngô, mì và gạo đạt 57% giá trị nông phẩm, so với 7% năm 1980.
Nhưng chi tiêu của chính phủ cho nông nghiệp chỉ là một phần trong tổng chi phí của các chương trình nông nghiệp mà thôi. Hầu hết những chi phí này đều phát sinh dưới dạng giá cao mà người tiêu dùng phải trả.
Khi đánh giá một chương trình nào đó của chính phủ, điều hữu hiệu là phải phân biệt được hai loại chi phí. Thứ nhất là chi phí đối với xã hội do việc không sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả. Ví dụ có những người ở lại khu vực nông nghiệp vì có những khoản trợ cấp của chính phủ, mặc dù họ có thể làm việc với năng suất cao hơn ở những nơi khác. Chi phí thứ hai là sự chuyển giao một khoản phân phối lại thu nhập từ một nhóm người này sang một nhóm người kia trong xã hội. Phần lớn các khoản chi phí của chương trình nông nghiệp là khoản chuyển giao từ những người ngoài ngành nông nghiệp cho nông dân.
Các chương trình nông nghiệp của chúng ta minh họa một nguyên lý chung khác mà chúng ta sẽ quay lại sau: chính phủ có thể trợ cấp cho các ngành công nghiệp và các cá nhân theo nhiều cách, và chỉ có một số khoản trợ cấp (giá của trợ cấp) là chi tiêu của chính phủ mà thôi
Chi tiêu bằng thuế
Một số khoản trợ cấp quan trọng nhất của chính phủ được mở rộng thông qua hệ thống thuế. Nếu chính phủ trao trợ cấp giáo dục cho sinh viên thì những khoản này là chi tiêu; nhưng nếu như chính phủ miễn giảm thuế cho chi phí giáo dục (tức là chính phủ cho phép ai đó giảm phần đóng thuế bằng khoản chi phí cho giáo dục). thì khoản đó không phải là chi tiêu của chính phủ. Chính phủ cũng có thể đánh thuế người đó rồi lại trợ cấp cho anh ta; cả hai cách này đều tương đương. Song, trong thống kê chúng lại là hai khoản hoàn toàn khác nhau.
Tương tự như vậy, nếu chính phủ trợ cấp cho nhà sản xuất để anh ta mua máy móc, thì đó là khoản chi tiêu của chính phủ; nhưng nếu chính phủ cho phép người đó giảm thuế đối với khoản tiền mua máy (tức là nếu anh ta mua một cái máy 100 đôla và giảm 7% thuế, anh ta sẽ được hưởng 7% tiền miễn thuế) thì khoản này không phải là chi tiêu của chính phủ. Song, một lần nữa hai khoản này trên thực tế đều tương đương.
Chúng ta gọi những khoản trợ cấp ngầm này là chi bằng thuế. Chính phủ liên bang phải dự tính những khoản thất thoát thu thuế gắn với mỗi khoản chi bằng thuế này. Trong những năm qua, những khoản này rất lớn. Để tính được giá trị của chúng , đầu tiên chúng ta phải tính xem mỗi cá nhân hay mỗi hãng sẽ nộp bao nhiêu tiền thuế  nếu không có những điều khoản đặc biệt cho phép họ miễn hoặc giảm thuế đối với mỗi loại chi tiêu khác nhau. Sau đó chúng ta tính phần chênh lệch giữa con số này và thuế thực tế. Khoản chênh lệch này là khoản không thu được từ chi tiêu bằng thuế. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến việc chính phủ đánh thuế cá nhân, rồi sau đó lại trợ cấp cho người đó (để mua máy móc, để đi học, để mua dịch vụ y tế,  vv…)
Điều hành kinh doanh 
Chính phủ điều hành hoạt động kinh doanh nhằm bảo vệ người lao động, người tiêu dùng và môi trường, và ngăn ngừa những thực tế chống lại cạnh tranh, ngăn ngừa sự phân biệt đối xử.
Cục bảo vệ sức khỏe và An toàn nghề nghiệp cố gắng đảm bảo để nơi làm việc của công nhân được đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định. Cục Quan hệ lao động quốc gia cố gắng đảm bảo để các nghiệp đoàn và bộ máy quản lý đối xử với nhau một cách công bằng. Ủy ban thương mại liên bang, ngoài những nhiệm vụ khác ra, đã cố gắng bảo vệ người tiêu dùng khỏi những tiết mục quảng cáo không chính xác. Cơ quan bảo vệ môi trường đã cố gắng bảo vệ những bộ phận quan trọng sống còn của môi trường, ví dụ điều chỉnh việc thải khí độc của ô tô.
Ngoài những cơ quan này ra, còn có những quy định áp dụng đối với những ngành cụ thể. Ngành ngân hàng thuộc phạm vi điều hành của cả Cục dự trữ liên bang lẫn Cục giám sát tiền tệ. Buôn bán hàng hóa và đường xe lửa chịu sự điều hành của Cục hàng không liên bang. Ngành bưu chính viễn thông chịu sự điều hành của Ủy ban liên lạc liên bang. Ngành chứng khoán chịu sự điều hành của Ủy ban chứng khoán hối đoái.
Trong những năm vừa qua đã có những nỗ lực được phối hợp nhằm giảm mức độ điều hành của liên bang. Qúa trình giảm này còn được gọi là quá trình giải quy chế (hay giảm điều tiết). Đã có sự giải quy chế trong ngành hàng không (đó là việc bỏ Cục Hàng không dân dụng năm 1984), trong ngành khí tự nhiên (giá khí đốt được phép tăng dần theo mức giá chung của thị trường), trong ngành thương mại và ngân hàng (các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp bây giờ được phép tăng dần lên).
Những khoản chi tiêu cấp liên bang cho các cơ quan điều hành chỉ chiếm dưới 1% ngân sách liên bang mà thôi. Nhưng những khoản chi đó không cho được những cái nhìn đúng đắn về tác động của các cơ quan điều hành này. Mức độ ảnh hưởng của các cơ quan này đối với mọi mật của hoạt động kinh doanh vượt ra ngoài thước đo thông thường bằng chỉ tiêu của chính phủ. Nhiều quy chế đã có những tác động tương tự như của các biện pháp thuế và trợ cấp. Ví dụ như những quy định về thuế và trợ cấp. Ví dụ những quy định về giá cả dịch vụ dân dụng có thể giảm giá cho một số đối tượng xuống dưới mức giá thị trường, trong khi đó lại nâng giá một số đối tượng khác.
Có thể có được một thước đo rất gián tiếp quy mô các quy định cấp liên bang qua việc nhìn vào chi phí báo cáo gồm cả việc điền vào mẫu, chi phí của hãng. Dưới chính quyền Carter đã có nỗ lực giảm chi phí bàn giấy, và Ủy ban bàn giấy đã được thành lập cho mục tiêu này. Trong báo cáo chi tiết của mình năm 1979, Ủy ban này đã dự tính khoảng 768 triệu giờ của các nhân viên không thuộc cơ quan chính phủ làm công việc của chính phủ. Số lượng thời gian này tương đương 400.000 công nhân làm việc đủ giờ trong cả năm. Những nhân viên gián tiếp này bằng 14% nhân viên trực tiếp cấp liên bang năm 1979.
Hoạt động của chính phủ trong thị trường tài chính 
Hoạt động của chính phủ trong thị trường tài chính là đặc biệt sâu rộng. Thị trường tài chính cung cấp một số dịch vụ rất quan trọng, đó là phân bổ vốn; đảm bảo các thể chế để những khoản tiết kiệm của cá nhân chuyển thành đầu tư thông qua các hãng. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho những người có đầu óc kinh doanh chuyển rủi ro kinh doanh cho công chúng nói chung; còn các hãng bảo hiểm thì tạo điều kiện cho các cá nhân thoát khỏi một số rủi ro mà họ gặp phải.
Chính phủ gây ảnh hưởng đối với khu vực tài chính thông qua rất nhiều các cơ quan điều hành. Như chúng tôi đã nêu, Cục dự trữ liên bang và Cục kiểm soát tiền tệ điều hành hệ thống ngân hàng, còn Ủy ban chứng khoán và chứng khoán thì điều hành ngành chứng khoán. Những cơ quan tiết kiệm và vay mượn thì do Cục ngân hàng cho vay nội địa liên bang điều hành. Mỗi bang trong số 50 bang đều có Ban bảo hiểm để bảo quản lý ngành bảo hiểm.
Ngoài những hoạt động điều hành này ra, chính phủ còn trợ cấp một số hoạt động nhất định  về cho vay của tư nhân, và thành lập cơ quan chính phủ để thực hiện các hoạt động bảo hiểm và tín dụng.
Cung cấp tín dụng
Khi cấp tín dụng lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, trên thực tế chính phủ đã trợ cấp cho tín dụng, với giả định rằng áp dụng tín dụng lãi suất thị trường cao đối với một số nhóm người phản ánh sự đánh giá của thị trường về rủi ro khi cho họ vay. Khoản trợ cấp thực tế chỉ được ghi trong sổ sách của chính phủ khi và nếu người vay không trả được nợ.
Trong một số trường hợp, chính phủ không cấp tín dụng mà chỉ bảo lãnh cho vay; việc đó cho phép người vay nhận được tiền vay với lãi suất thấp hơn nhiều. Vì không có chi phí ngân sách vãng lai, những khoản đảm bảo vay này là phương pháp trợ cấp ít khó khăn để trợ cấp cho một ngành.
Khi tập đoàn Chrysler đang trên bờ phá sản  năm 1979, chính phủ đã bảo lãnh cho công ty đó vay. Mặc dù cuối cùng Chrysler đã trả  được nợ, khoản bảo lãnh đó vẫn là một khoản trợ cấp lớn cho Chrysler trong ngân sách. Vì Chryster đã thanh toán xong khoản nợ của mình, nên trợ cấp đó không nằm trong chi tiêu của chính phủ. Thay vào đó, chi phí thực của nó chỉ là phần giảm đi trong số các tín dụng cấp cho các hãng khác mà thôi.
Phần lớn hoạt động cấp tín dụng của chính phủ tăng lên theo mức độ thất bại của thị trường tư nhân trong việc cung cấp tín dụng trong điều khoản thông thường. Chương trình cho vay của chính phủ (dù đó là các khoản vay trực tiếp hay có bảo lãnh) luôn sẵn sàng để nông dân, chủ sở hữu nhà, doanh nghiệp nhỏ, những nhà xuất khẩu, ngành dịch vụ công cộng, các công ty đóng tàu và các chính phủ nước ngoài được vay.
Để định hướng vai trò của chính phủ liên bang trong việc tác động đến việc luân chuyển vốn giữa người tiết kiệm và người vay, điều quan trọng là phải so sánh số tiền cho vay dưới sự bảo trợ của chính quyền liên bang với tổng lượng tiền cho vay của Hoa Kỳ. Lương tiền cho vay hàng năm dưới sự bảo trợ của liên bang là phần chênh lệch giữa lượng tiền cho vay trực tiếp và lượng tiền bảo lãnh ở cấp liên bang tại thời điểm đầu năm và cuối năm. Năm 1986 khoản đó là 129 tỷ đô la. Cung tín dụng trong nước là tổng số tiền cổ phần tăng lên của tất cả các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Năm 1986 khoản đó là 889 tỷ đô la. Tỷ lệ cho vay và trợ cấp liên bang là 14,5% năm 1986. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ cao điểm nhất 22,6% năm 1980.
Khi sử dụng những tỷ lệ này cần phải thận trọng, bởi vì nó không phân biệt được giữa một đô la cho vay với, hoặc sát với, lãi suất thị trường tư nhân, và các khoản vay cấp liên bang là khoản trợ cấp ngầm lớn . Chính phủ liên bang mới chỉ bắt đầu đưa ra hệ thống hạch toán có biện pháp tính được lượng trợ cấp ngầm thông qua tín dụng cấp liên bang.
Cung cấp bảo hiểm
Trong thời kỳ từ cuộc Đại khủng hoảng, chính phủ ngày càng có vai trò to lớn hơn trong việc cung cấp bảo hiểm. Có hai nhóm bảo hiểm của chính phủ.
Thứ nhất là bảo hiểm xã hội, bao gồm trợ cấp xã hội (cho người nghỉ hưu và bảo hiểm sinh mạng), bảo hiểm y tế (cho người già), bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm cho những người mất khả năng lao động (trong trường hợp bị tai nạn lao động). Bảo hiểm xã hội tăng tới 18% tổng chi tiêu ngân sách của chính phủ và 28% chi tiêu ngân sách chính phủ liên bang. Như chúng ta sẽ thấy sau này, cái gọi là chương trình bảo hiểm không hẳn là chương trình bảo đảm lợi ích cho con người để giá trị thực mà họ sẽ bằng với phần đóng  của họ. Chương trình bảo hiểm cũng đảm bảo các phương tiện để phân phối lại thu nhập cho một số nhóm dân cư có nhu cầu đặc biệt. Vì lý do đó, chúng ta hay chia thành các chương trình chuyển giao, tức là chương trình thuần túy để thu nhập cho các nhóm dân cư cụ thể.
Loại chương trình bảo hiểm thứ hai của chính phủ tập trung vào rủi ro kinh doanh. Mặc dù loại chương trình bảo hiểm này là tự lực, song trong những năm vừa qua một số cơ quan quản lý chúng đã bị lỗ. Trong khi công ty liên bang bảo hiểm tiền gửi (công ty này bảo hiểm tiền gửi trong các ngân hàng thương mại) đã tích được 18 tỷ đô la dự trữ, thì các chương trình khác đã sử dụng hết số dự trữ đó. Đây là trường hợp của các công ty đảm bảo lợi ích hưu trí, công ty này bảo hiểm cho công nhân ở những hãng tư nhân, có tham gia bảo hiểm, tránh được khả năng quỹ hưu trí của họ không thể đáp ứng được nhiệm vụ chi trả. Điều này cũng đúng với công ty bảo hiểm tiết kiệm và cho vay (khi tiền đóng bảo hiểm vượt các khoản lỗ, số dư đó chuyển vào dự trữ; khi lỗ vượt thì chệnh lệch đó được lấy ra từ dự trữ). Nhiều nhà kinh tế cho rằng khoản lỗ của các công ty này rất lớn. Những chương trình bảo hiểm khác của liên bang do cơ quan quản lý tình trạng khẩn cấp của liên bang phụ trách.

(1) Các ngân hàng dự trữ liên bang là sở hữu công cộng và chịu trách nhiệm về quản lý hệ thống ngân hàng .
(2) Đây là số lương nhân viên quy đổi làm việc cả ngày. Hai người làm việc nửa ngày tính bằng một người làm việc cả ngày.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật


Chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ

26-8-2012 (VF) — Hàng năm, chính phủ mua hàng tỷ đôla hàng hóa và dịch vụ để cung cấp cho quốc phòng, bảo dưỡng hệ thống đường cao tốc, cấp cho giáo dục, bảo vệ trật tự, hỏa hoạn và công viên. Số lượng tiền mua bằng hóa đơn chiếm một phần năm tổng sản lượng ở Hoa Kỳ.
Mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ giữa “người mua là chính phủ” và “người sản xuất là chính phủ”, song hai chủ thể này vẫn khác biệt về quan điểm cũng như thực tiễn. Phần nhiều những gì chính phủ mua vào là do chính phủ làm ra. Song chính phủ cũng mua nhiều hàng hóa do tư nhân sản xuất ra (kể cả nhiều loại vũ khí quân dụng). Vì chính phủ lại bán một phần cái mà chính phủ làm ra (phần lớn là điện và dịch vụ đường sắt) cho các hãng tư nhân và người tiêu dùng (4).
Cái mà chúng tôi đặc trưng cho những khoản mua của chính phủ là khoản chi mua hàng hóa dịch vụ cho công chúng sử dụng tự do không phải trả tiền, như quốc phòng, trường học công và đường cao tốc. Những khoản chi của chính phủ cho người già thông qua chương trình chăm sóc sức khỏe để cấp chi phí cho họ khi phải vào bệnh viện, hoặc cấp cho người nghèo thông qua chương trình cấp tem phiếu lương thực, được phân vào thanh toán chuyển giao chứ không phải các khoản mua hàng trưc tiếp. Do đó chúng ta có thể thảo luận vấn đề này ở một phần riêng về phân phối thu nhập của chính phủ.
Chi tiêu quốc phòng nghiêm cấm phần lớn những khoản mua này của chính phủ, trong khi đó ở cấp bang và địa phương giáo dục chiếm phần đa số. Khi chính phủ liên bang cấp kinh phí cho các khoản mua của địa phương và bang  thì những khoản này được quy vào đơn vị quản lý.
Tổng số tiền mua hàng và dịch vụ của chính phủ là khoản dưới 1.000 tỷ  đô la trong năm 1985. Ở cấp liên bang những khoản mua này là cho quốc phòng, bao gồm quân đội, hải quân, phát triển vũ khí. Có hai khoản liên quan chặt chẽ đến quốc phòng: (1) các chi phí cho các chương trình trợ cấp cựu binh mà có thể coi như sự trả công cho quá trình phục vụ trước đây trong các lực lượng vũ trang; và  (2)  phần lớn các chương trình nghiên cứu không gian  và công nghê được xậy dựng nên được sự quan tâm đến vấn đề phòng thủ . Nếu chúng ta gộp các vấn đề này lại với nhau  thì các chi tiêu cho quốc phòng và những vấn đề liên quan lên tới ba phần tư  số tiền mua của chính phủ liên bang .
Đối với các bang và  các chính phủ địa phương, phần lớn nhất là giáo dục, chiếm gần nửa số tổng số tiền mua hàng hóa và dịch vụ. Mặc dù các chi tiêu chủa chính phủ liên bang đã tăng một cách đáng kể trong những năm gần đây, chúng vẫn chiếm chỉ có 8% tổng số chi tiêu cho giáo dục của chính phủ.
Khi xem xét sự chi tiêu tổng hợp ở mọi cấp của chính phủ, những chi tiêu chủ yếu sau quốc phòng(32%) và giáo dục (22%) là y tế và bệnh viện(7%) và giao thông vận tải (6%). Gần một nửa tổng số chi tiêu của khu vực công cộng cho giao thông vận tải được chính phủ liên bang tài trợ, nhưng các chính quyền bang  và địa phương quản lí  tới 86% các chi phí.
Còn có những chi tiêu khác của chính phủ ở dạng chương trình nhằm khuyến khích và điều hành thương mại, nhằm xây dựng nhà ở và các dự ắn phát triển thành phố, và nhằm duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật


Phân phối lại thu nhập của chính phủ

26-8-2012 (VF) — Chính phủ đóng một vai trò tích cực trong phân phối lại thu nhập bằng cách lấy tiền của một số cá nhân và đưa cho những người khác. Có hai nhóm chính thuộc các chương trình phân phối lại công khai: các chương trình hỗ trợ công cộng nhằm trợ giúp cho những người nghèo có đủ tiêu chuẩn, và bảo hiểm xã hội nhằm trợ giúp cho những người về hưu, tàn tật, thất nghiệp và ốm đau. Chúng ta sẽ xem xét một số cách mà chính phủ dùng để che đậy sự phân phối lại.
Như ta thấy ở trên, những chi tiêu dành cho dành cho các chương trình phân phối lại công khai được gọi là các khoản thanh toán chuyển giao. Những chi tiêu này là khác nhau tính chất so với các chi tiêu của chính phủ cho những việc, ví dụ như làm đường hay mua sung. Các khoản thanh toán chuyển giao chỉ đơn giản là sự thay đổi đối với những người có quyền tiêu thụ hàng hóa. Ngược lại, phần chi tiêu của chính phủ cho đường sá hoặc sung ống làm giảm đi một lượng những hàng hóa khác( hàng hóa tiêu dùng cá nhân) mà xã hội có thể hưởng. Thanh toán xã hội cho các thành viên trong xã hội, nhưng sự chuyển giao này không ảnh hưởng đến tổng số hàng hóa được sử dụng ( bỏ qua ở đây sự phá vỡ những động lực do chuyển giao này gây ra).
Các chương trình hỗ trợ công cộng
Các chương trình hỗ trợ công cộng ( giống như những chương trình bảo hiểm xã hội) có hai dạng. Một dạng cung cấp tiền mặt, còn dạng kia thì chi trả cho những dịch vụ hay hàng hóa đặc biệt. Dạng thứ hai là loại trợ cấp hiện vật. Trong số các chương trình cấp tiền mặt, các chương trình lớn nhất là: Trợ cấp cho các gia đình đông con sống phụ thuộc(AFDC) và thu nhập đảm bảo bổ sung (SSI) nhằm cung cấp tiền mặt cho những người nghèo bị tàn tật, mù hoặc già cả. Chương trình trợ giúp công cộng bằng hiện vật lớn nhất là trợ cấp y tế nhằm trợ giúp cho các chi tiêu về y tế của người nghèo. Trong năm 1986, trợ giúp y tế chiếm 44% trong tổng số tiền hỗ trợ công cộng, bằng 45 tỷ đôla.
Các chương trình bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội khác với hỗ trợ công cộng ở chỗ, mỗi cá nhân phụ thuộc một phần vào các đóng góp của người đó mà nó có thể được coi như là tiền đóng bảo hiểm. Theo chừng mực mà mỗi người sẽ nhận được một khoản đóng góp của người ấy, bảo hiểm xã hội được xem như là “hoạt động sản xuất” của chính phủ, chứ không phải là hoạt động phân phối lại. Nhưng do phần nhận được thường lớn hơn rất nhiều so với phần họ phải đóng góp nên một phần lớn tái phân phối là dựa vào các chương trình bảo hiểm xã hội của chính phủ.
Chương trình lớn nhất trong các chương trình đó là chương trình bảo hiểm cho người già, bảo hiểm sinh mạng và người không có khả năng lao động .
Các chương trình bảo trợ xã hội và chăm sóc y tế đôi khi được hiểu là các chương trình cho tầng lớp trung lưu, bởi vì, những người được hưởng chủ yếu là tầng lớp trung lưu, và trợ cấp không dựa trên cơ sở nhu cầu mà để họ thỏa mãn những tiêu chuẩn khác (ví dụ tiêu chuẩn tuổi). Chừng nào họ thỏa mãn những tiêu chuẩn này thì họ được nhận trợ cấp.
Các chương trình phân phối lại ngầm
Chính phủ có ảnh hưởng đến phân phối thu nhập không chỉ thông qua các khoản trợ cấp trực tiếp, mà còn thông qua những ảnh hưởng gián tiếp của hệ thống thuế và các chương trình khác của chính phủ. Có thể tưởng tượng là chính phủ đánh thuế mọi người với mức thuế như nhau, nhưng sau đó trợ cấp cho những người có thu nhập thấp hơn một mức nhất định. Điều này có ảnh hưởng tương tự như đánh thuế những người có thu nhập thấp hơn với thuế suất thấp hơn. Do đó, có sự tùy tiện nhất định trong việc phân định giữa trợ cấp xã hội thông qua các chương trình chi tiêu và những khoản trợ cấp ngầm thông qua hệ thống thuế (1).
Chính phủ còn phân phối lại thu nhập dưới hình thức chương trình trợ cấp và hạn ngạch. Chương trình nông nghiệp trên thực tế là phân phối lại thu nhập cho nông dân. Hạn ngạch nhập khẩu dầu lửa những năm 1950 đã phân phối lại thu nhập cho các chủ dự trữ dầu . Lý do để đưa ra hạn ngạch này là để đảm bảo sự độc lập về năng lượng của Hoa Kỳ; mặc dầu vậy, tác động mang tính chất phân phối lại là nằm trong những hậu quả chủ yếu, và chúng thực sự có thể là động cơ để có hệ thống pháp luật.
Chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ cũng có hậu quả mang tính phân phối lại: trợ cấp cho giao thông xe buýt trong thành phố có thể giúp người nghèo, đồng thời trợ cấp cho đường xe lửa ngoại thành có thể lại giúp cho giới trung lưu. Như chúng ta sẽ thấy trong những chương tới, việc đánh giá chi tiêu của chính phủ là vấn đề vô cùng phức tạp.

(1) Một phần chi tiêu thuế được xem như dưới dạng bảo hiểm xã hội. Việc bảo hiểm thất nghiệp và bảo trợ xã hội chỉ bị đánh thuế một phần và lợi ích đối với người mất khả năng lao động không bị đánh thuế, có nghĩa là 1 đô la chi tiêu trực tiếp cho mục tiêu này phải tăng them nếu như nó bị đánh thuế.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật


Tổng chi tiêu của chính phủ: Cái nhìn toàn cảnh

26-8-2012 (VF) — Bây giờ chúng ta sẽ xem xét một cách tổng quát tổng chi tiêu của chính phủ thông qua các khoản trợ cấp cho những nhà sản xuất của chính phủ, qua mua hàng hóa, dịch vụ và trợ cấp cho các cá nhân. Mua hàng hóa dịch vụ chủ yếu cho quốc phòng và giáo dục, chiếm trên một nửa tổng  chi tiêu của khu vực công cộng trong năm 1986. Một phần tư khác là các khoản thanh toán chuyển giao.
Thanh toán chuyển giao là khoản quan trọng trong ngân sách liên bang so với chi tiêu của khu vực công cộng. Năm 1986, thanh toán chuyển giao chiếm 37% tổng chi tiêu liên bang. Số còn lại trong chi tiêu của liên bang được chia ra giữa quốc phòng (32%), lãi suất (13%), viện trợ (8%) và các khoản khác (11%, bằng 114 tỷ đô la). Thâm hụt ngân sách liên bang năm 1986 là 203 tỷ đô la lớn hơn loại chỉ tiêu cuối cùng này. Do đó, cân đối ngân sách mà không giảm các khoản chuyển giao, giảm chi quốc phòng hay tăng thuế, là việc không thẻ làm được.
Trách nhiệm liên bang so với trách nhiệm cấp bang và địa phương
Trong chương 1 chúng ta đã thấy là chính phủ Hoa Kì có cơ cấu liên bang: chính phủ liên bang chịu trách nhiệm chủ yếu về cung cấp một số hàng hóa và dịch vụ nhất định, trong đó các chính phủ bang và địa phương cung cấp những hàng hóa khác. Ngày nay, chính phủ liên bang chi toàn bộ cho quốc phòng, 98% bảo hiểm xã hội, ba phần tư hỗ trợ công cộng, nhưng chỉ chi dưới 1/12 cho giáo dục công cộng. Ngân sách liên bang gần bằng hai lần tổng ngân sách của các chính phủ bang và chính quyền địa phương.
Mối quan hệ giữa chính phủ liên bang và các bang, các địa phương là rất phước tạp. Chính phủ liên bang trao trực tiếp các khoản trợ cấp (hiện nay hầu hết đều giới hạn vào các chương trình đặc biệt) và giao cho các địa phương và bang quản lí các chương trình của liên bang. Nhưng khoản chi tiêu này có thể được báo cáo vừa là chi tiêu của “liên bang”  vừa là chi tiêu của “bang và địa phương” .
Trong những năm vừa qua đã có những thay đổi rõ nét về tầm quan trọng tương đối của các cấp chính phủ này. Khi xem xét những thay đổi này phải ghi nhận rằng, phần của liên bang dành cho chi tiêu không phải là quốc phòng đã tăng từ dưới một phần năm năm 1902 lên trên một nửa năm 1986.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật


Triển vọng và quy mô khu vực công cộng ở Hoa Kỳ

26-8-2012 (VF) — Bởi vì sự ảnh hưởng của chính phủ đối với kinh tế tư nhân phụ thuộc vào các chính sách điều hành và thuế khóa cũng như các khoản chi tiêu của nó, cho nên không một con số đơn độc  nào có thể đưa ra một chỉ số chính xác về tác động của chính phủ đối với nền kinh tế của Hoa Kì. Mặc dầu vậy, một con số mà các nhà kinh tế thấy rất tiện dụng là mức độ chi tiêu công cộng so với quy mô của toàn bộ nền kinh tế. Thước đo chuẩn về quy mô toàn nền kinh tế là tổng sản phẩm quốc dân(GNP), dùng để đo giá trị toàn bộ hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế trong một năm.
Gia tăng chi tiêu và thay đổi thành phần chi tiêu
Trong vòng 50 năm qua, tỷ trọng chi tiêu công cộng trong GNP đã tăng lên rất nhanh. Năm 1930 là 11% của GNP. Hiện nay là 35%.
Chi tiêu cho quốc phòng
Từ năm 1960 đến năm 1977, tỷ lệ chi cho quốc phòng đã giảm trong GNP (từ 9% xuống còn 5%) cũng như trong chi tiêu của chính phủ. Nhưng kể từ thới kì đó lại có xu hướng ngược lại: Năm 1986 chi tiêu cho quốc phòng trong GNP vẫn không đạt mức của năm 1960. Trên thực tế, trong thới gian từ 1960 đến 1977, chi tiêu thực tế tăng với tốc độ chậm hơn tỷ lệ lạm phát.
Nhằm tránh những ấn tượng sai có thể do không tính đến lạm phát một cách hợp lí, các nhà kinh tế muốn thể hiện những chi phí này bằng “ đôla cố định”. Do đó, nếu năm ngoái chính phủ chi một tỷ đôla cho một chương trình nào đó, và năm nay chi 1,1 tỷ, nhưng lại tăng lên 10%, thì chúng ta nói rằng chi tiêu hiện hành (đo bằng giá năm ngoái) vẫn là 1 tỷ; vì theo đô la cố định thì chi tiêu không hề tăng. Do đó, theo đôla cố định của năm 1982 thì chi quốc phòng đã co lại từ mức trung bình là 175 tỷ năm 1970- 1974 xuống 156 tỷ năm 1980, nhưng lại tăng lên 227 tỷ năm 1985. Dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Mức gia tăng 45% này của chi tiêu thực tế cho quốc phòng trong năm năm không gây ra tranh cãi lớn, là điều không có gì đáng ngạc nhiên.
Thanh toán chuyền giao và trả lãi
Gia tăng chi tiêu cho bảo trợ xã hội, cho các chương trình hưu trí, chăm sóc y tế và trả lãi chiếm phần lớn số tăng trong chi tiêu công cộng kể từ năm 1950. Mặc dầu hỗ trợ công cộng thường bị coi là nguồn gốc tăng chi tiêu công cộng, tỷ trọng của nó trong tổng chi tiêu của chính phủ chỉ tăng có từ 4- 6%.
Giải thích các số liệu
Có nhiều quan điểm phổ biến về sự thay đổi của mức chi tiêu và cách thức chi tiêu của khu vực công cộng trong một phần tư thể kỉ qua, và về những số liệu mà chúng ta đã và đang bàn đến.
Các số liệu không cho thấy mức tăng lớn về chi tiêu vào cuối những năm 1960, như  người ta thường vẫn nghĩ là do cuộc chiến chống nghèo khổ gây ra. Chúng cũng không cho thấy chi tiêu giảm vào đầu những năm 1980, mặc dù những nỗ lực của Reagan nhằm giảm quy mô của chính phủ. Thời kì tăng nhanh chi phí quốc phòng bắt đầu từ  trước năm  1960, mức tăng không chỉ dưới chính quyền Jonhson (1963-1969) mà còn qua cả thời Nixon (1969-1974). Chỉ đến dưới chính quyền Carter mới có sự giảm rõ ràng nhất.
Tuy nhiên, những số liệu này có thể không chính xác. Chi tiêu của một năm có thể là do các chương trình đã triển khai từ trước đó. Chương trình chăm sóc y tế áp dụng năm 1965, nhưng toàn bộ chi phí của chúng chưa được thực hiện cho mãi tới sau này. Mức chi tiêu cao hiện nay cho bảo trợ xã hội là hậu quả thay đổi trong những năm 1970. Việc tăng cường chi tiêu hiện nay cho quân sự sẽ có ảnh hưởng đến ngân sách nhiều năm sau này, khi các đơn đặt hàng hiện nay được giao nhận.
So sánh chi tiêu giữa các nước
Chi tiêu của Hoa Kỳ tỏ ra nhỏ hơn nhiều chi tiêu của các nước Tây Âu khác, tỷ lệ gia tăng chi tiêu của Hoa Kỳ cũng nhỏ hơn nhiều so với các nước công nghiệp khác. Sự chênh lệch còn lớn hơn nữa nếu chúng ta tính đến chênh lệch trong thu nhập quốc dân.
Ở các nước thu nhập đầu người cao hơn có xu hướng khu vực công cộng khá lớn. So với những nước công nghiệp hóa khác có thu nhập đầu người tương tự thì tỷ lệ chi tiêu của khu vực công cộng Hoa Kỳ đóng vai trò lớn hơn, cho nên tỷ trọng chi phí phi quốc phòng đặc biệt thấp, nếu xét từ góc độ triển vọng quốc tế.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật

Thu của chính phủ

28-8-2012  (VF) — Bây giờ chúng ta xem xét xem chính phủ chi tiền vào đâu, chúng ta sẽ nghiên cứu một cách ngắn gọn những cách huy động nguồn thu của chính phủ để phục vụ chi tiêu này. Chính phủ áp dụng nhiều loại thuế khác nhau. Khi thu của chính phủ từ nguồn thuế ít hơn chi tiêu theo kế hoạch của mình, chính phủ phải hoặc là cắt giảm chi tiêu hoặc là vay them phần thiếu đó.
Thuế và hiến pháp
Vấn đề thuế là vấn đề mà các nhà sáng lập ra nước cộng hòa phải tư duy nhiều nhất. Thực vậy, cuộc cách mạng đã bắt đầu bằng cuộc nổi loạn chống thuế của Đảng Chè ở Boston Tea Party). Đó là cuộc cách mạng chống thuế chè với khẩu hiệu “đánh thuế mà không có ai đại diện là một hành động chuyên chế”. Điều đầu tiên trong hiến pháp đã quy định rằng “Quốc hội phải có quyền định ra thuế và thu thuế, thuế hải quan, thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt, để trả nợ và chi tiền cho quốc phòng và phục vụ lợi ích chung của Hoa Kỳ”.
Ba loại hạn chế đã được áp đặt: Chính phủ không được đánh thuế xuất khẩu; “toàn bộ thuế, nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt” phải được áp dụng thống nhất trên toàn nước Hoa Kỳ; “không một loại thuế cá nhân hay trực tiếp nào được phép áp dụng chừng nào chưa có thông nhất hay chỉ đạo trực tiếp”. Dụng ý của những điều khoản này là bảo đảm để không một nhóm bang nào lợi dụng được bang khác. Hạn chế đối với thuế xuất khẩu đã được ban hành, bởi vì những bang ở phía nam lo lắng rằng các bang ở phía bắc đánh thuế xuất khẩu bông mà gánh nặng của nó (mặc dù đã áp dụng thống nhất) sẽ giáng vào những nhà sản xuất phía nam. Tương tự , những bang giàu có lo lắng rằng  những bang nghèo buộc họ phải trả phần bất cân đối – theo họ hiểu – của thuế, và do đó chỉ có thuế trực tiếp đã được phép áp dụng là thuế than thống nhất.
Những người soạn thảo hiến pháp đã dự đoán đúng rằng, những vấn đề đánh thuế phân biệt của một số bang có thể chia rẽ liên bang, nhưng họ lại không dự đoán được một cách đầy đủ những công cụ ảnh hưởng đến sự phân biệt này. Thuế quan nhập khẩu  không chỉ làm tăng thu, mà còn tăng giá mà nhà sản xuất trong nước phải trả. Vấn đề thuế quan đối với hàng hóa sản xuất ra ở phía bắc là một trong những vấn đề chia rẽ nhất trong thời kỳ trước Nội chiến, mà trên thực tế là khoản trợ cấp ròng của phía Nam trợ cấp cho phía Bắc.
Mặc dù những vấn đề này có thể không đến nỗi chia rẽ lắm, nhưng vẫn có mâu thuẫn. Năm 1980, chính phủ liên bang đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dầu lửa, và do quyết định đó đã làm cho giá dầu lửa tăng. Thuế lợi nhuận trời cho, gọi như vậy vì thuế đó sẽ dành cho chính phủ phần nào đó lợi ích ngẫu nhiên mà các nhà sản xuất nhận được do giá cả tăng, không áp dụng đối với giàu lửa ở phía bắc Alaska. Bang Texas và các bang sản xuất dầu lửa lớn khác nhìn nhận thuế đó như là một biện pháp phân biệt đối xử, vi phạm tính thống nhất của hiến pháp. Tòa án cấp quận của Hoa Kỳ đồng tình với họ, song khi kháng cáo, Tòa án tối cao năm 1983 ra lệnh là sự phân biệt tùy tiện, do đó Quốc hội không hề vi phạm điều khoản thống nhất của Hiến pháp.
Tuy nhiên, điều khoản của Hiến pháp hạn chế thuế trực tiếp đã tỏ ra có vấn đề. Quốc hội đánh thuế trong thời kỳ nội chiến và ban hành lại vào năm 1894 dưới dạng thuế đánh vào thu nhập rất cao. Song năm 1895, Tòa án cứ khăng khăng cho rằng thuế thu nhập cá nhân một phần là thuế trực tiếp mà theo quy định của hiến pháp phải cân đối giữa các bang xét theo góc độ dân số của chúng. Sự phê phán lan truyền rộng rãi đó đã dẫn đến phải sửa đổi hiến pháp. Hiến pháp sửa đổi lần thứ 16, được thực hiên năm 1913, tuyên bố rằng “Quốc hội có quyền đánh thuế và thu nhập thuế thu nhập từ mọi nguồn mà không có sự cân xứng giữa các bang và không cần phải điều tra hay kê khai”.
Tuy nhiên điều khoản cân xứng vẫn hạn chế Quốc hội áp dụng một số thuế . Một số nước đã áp dụng thuế tài sản quốc gia và thuế người giàu có. Nhưng những thuế này có thể coi là thuế trực thu và do đó bị loại ở Hoa Kỳ bởi điều khoản cân xứng.
Thuế ở cấp bang hiện nay
Vừa qua chính phủ liên bang đã đưa ra năm dạng thuế chủ yếu: 1) thuế thu nhập các nhân; 2) thuế quỹ lương; 3) thuế thu nhập công ty; 4) thuế tiêu thụ đặc biệt (thuế đánh vào những hàng hóa đặc biệt như xăng dầu, thuốc lá, vé máy bay và rượu); 5) thuế quan nhập khẩu (thuế đánh vào một số hàng nhập). Thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu thuế lớn duy nhất trong số nguồn thu bằng thuế của chính phủ. Năm 1986, thuế bảo trợ xã hội chiếm 36%, thuế thu nhập công ty chiếm 6% thu nhập của chính phủ.
Đã có sự thay đổi lớn trong cơ cấu chi tiêu trong năm mươi năm qua, cũng như sự thay đổi rõ nét trong nguồn thu của chính phủ. Trừ giai đoạn ngắn của Nội chiến và năm 1894, chính phủ liên bang đã không áp dụng một loại thuế thu nhập nào đối với các cá nhân trước năm 1913. Thuế thu nhập cá nhân trước năm 1940 chiếm 25% hoặc ít hơn tổng thu từ thuế của chính phủ. Khi đó thuế tăng gấp bốn lần nhằm tăng thu cho thế chiến thứ hai. Vì lý do chiến tranh, thuế thu nhập cá nhân đã trả thành nguồn thu  liên bang. Thuế thu nhập công ty ngày càng giảm , giảm từ 36% tổng thu của liên bang năm 1927 xuống 23% năm 1960 và 8% năm 1986.
Thu của cấp bang và địa phương
Khác với hệ thống thuế liên bang , hệ thống thuế cấp bang và địa phương dựa chủ yếu vào thuế doanh thu và thuế tài sản . Thuế tài sản là nguồn thu chủ yếu của cấp này cho đến năm 1976. Ngày nay thuế doanh thu chiếm 23% tổng thu và thuế tài sản chiếm 19%. Thuế thu nhập bang và địa phương tăng 12% trong tổng số, trong khi đó thuế thu nhập công ty chỉ tăng có 3%.
Sự cạnh tranh giữa các bang không khuyến khích sử dụng nhiều loại thuế ở cấp bang và địa phương, đặc biệt là thuế thu nhập công ty. Để đáp ứng nhu cầu của các dịch vụ của bang và địa phương , chính phủ liên bang đã bảo đảm viện trợ ngày càng tăng cho chính phủ bang và chính quyền địa phương. Phần nhiều viện trợ đó cung cấp trực tiếp qua chương trình cụ thể như xây dựng đường sá, giáo dục song ngữ, dạy nghề và thư viện. Vào cuối những năm 1960 và 1970, chính phủ liên bang đã cấp vốn khá lớn theo chương trình gọi là phân chia thu nhập chung. Năm 1986, liên bang đã cấp cho chính quyền bang và địa phương một phần sáu tổng nguồn thu của họ.
So sánh thuế giữa các nước
Cách đánh thuế ở các nước rất khác nhau. Ở các nước châu Âu, thuế thu nhập cá nhân ít quan trọng (chỉ chiếm dưới 30% thu nhập ở Anh và Đức, 13% ở Pháp).; nhưng thuế hàng hóa và dịch vụ lại quan trọng hơn. Đối với hầu hết các nước, thuế giá trị gia tăng (thuế đánh vào giá trị sản phẩm của hãng trừ đi giá trị hàng hóa và dịch vụ mà hãng mua về) là nguồn thu chủ yếu, và trong nhiều trường hợp nó chiếm tới một phần sáu nguồn thu của chính phủ . Thuế bảo trợ xã hội cũng chiếm một phần nào đó trong thu của chính phủ Nhật Bản, và ở mức trung bình của Châu Âu cũng như Hoa Kỳ.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995, Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật

0 nhận xét:

Đăng nhận xét