Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Theo dòng thời gian (6.3)


Việt Nam - Ngươi đang ở đâu và sẽ đi đến đâu? (Kỳ 24)

Lạm phát, tỷ giá hối đoái và lãi suất: Vòng luẩn quẩn
http://www.tuanvietnam.net//vn/tulieusuyngam/3664/index.aspx
"Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo, lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này." - Ý kiến của TS. Nguyễn Quang A.


Giới chuyên môn bàn cãi khá nhiều về nguyên nhân lạm phát và chính sách chống lạm phát. Lạm phát ở Việt Nam được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của một rổ gồm 494 mặt hàng thiết yếu, chia ra làm 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ.

Tỷ trọng, tỷ lệ đóng góp vào CPI (còn gọi là quyền số) của sự tăng giá của các nhóm hàng và dịch vụ chính là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống 42,85% (trong đó lương thực 9,86 và thực phẩm 25%); nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng 9,99%; giao thông, bưu chính viễn thông 9,04%; thiết bị đồ dùng gia đình 8,62%; may mặc, mũ nón, giày dép 7,21% [Thông cáo báo chí của Tổng cục thống kê ngày 3-7-2006].

Đóng góp vào CPI của mỗi nhóm hàng bằng sự thay đổi giá của các nhóm hàng đó (so với thời điểm gốc, thí dụ năm trước, tháng trước) nhân với quyền số tương ứng. CPI bằng tổng của những đóng góp đó. Với tỷ trọng gần 43% sự gia tăng giá thức ăn góp phần rất lớn vào CPI ở Việt Nam. Các chuyên gia của Quỹ đầu tư Dragon Capital đã tính đóng góp của thức ăn vào CPI như sau (trục bên trái).


Hình 1. Đóng góp của thức ăn vào chỉ số giá cả (%, trục bên trái); chỉ số giá tiêu dùng (trục phải) ở Việt Nam. (Nguồn: http://www.dragoncapital.com/UserFiles/File/monthly%20report/2008/Apr/VNFocus_200804.pdf)

Hình này cũng cho thấy diễn biến của CPI (so với cùng kỳ năm trước, đường cong tính theo trục bên phải). Có thể thấy đóng góp vào CPI của thức ăn luôn cao (cỡ 50 đến 80%) ở Việt Nam.

Biến động chỉ số giá thức ăn thế giới từ 2005 đến 3-2008 có thể thấy trên Hình 2 dưới đây.


Hình 2: Biến động chỉ số giá thức ăn thế giới (trục hoành: từ tháng 1 đến tháng 12) từ năm 2005 đến tháng 3-2008 (so với mức giá 1998-2000 được lấy là 100), nguồn FAO

Có thể thấy từ tháng 10-2006 chỉ số giá thức ăn thế giới bắt đầu tăng nhanh nhưng đến tháng 3-2007 vẫn dưới 140 điểm, nhưng từ tháng 4-2007 đến tháng 3-2008 đã từ 140 lên trên 220.

Giá thức ăn trong nước không nhất thiết tăng theo giá thế giới, tuy nhiên do độ mở khá cao của nền kinh tế Việt Nam giá thức ăn trong nước (và đóng góp vào CPI của nó) cũng bắt đầu tăng nhanh từ tháng 4-2007 như có thể thấy trên Hình 1, dù lạm phát vẫn ở mức dưới 8%.

Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh theo nhịp độ tăng giá thức ăn thế giới từ tháng 9-2007, nhất là trong 4 tháng đầu năm 2008 khi CPI tháng 4 lên đến 21,42% so với tháng 4-2007(lương thực tăng 25,1%; thực phẩm tăng 15,6% so với tháng 12-2007).

Tất nhiên lạm phát không chỉ do tăng giá thức ăn gây ra, việc tăng giá năng lượng, vật liệu (với quyền số gần 10%) cũng góp phần không nhỏ, và giá thế giới của các mặt hàng đó cũng tăng cao. Tăng trưởng tín dụng, lượng cung tiền cũng góp phần tăng lạm phát.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia của Dragon Capital nguyên nhân chính của lạm phát trong thời gian qua là sự tăng giá thức ăn và năng lượng trên thế giới đã tác động đến giá của các mặt hàng có quyền số lớn như đã nêu ở trên. Và nếu vậy thì theo họ các biện pháp chống lạm phát vừa qua mà chủ yếu là thắt chặt chính sách tiền tệ là chưa hoàn toàn trúng.

Theo họ vấn đề là tỷ giá hối đoái. Đồng Việt Nam đã được neo vào đồng USD từ lâu. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines (phil), Trung Quốc (China), Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh). Biến động tỷ giá như vậy từ 1-2005 đến tháng 4-2008 được biểu hiện trên Hình 3 dưới đây:


Hình 3: Tỷ giá đồng nội tệ/USD tại mỗi thời điểm)/(tỷ giá đồng nội tệ/USD tháng 1-2005. (Nguồn Dragon Capital)

Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20% vào tháng 4-2008 so với tháng 1-2005) như có thể thấy trên hình 3. Ngược lại đồng Việt Nam vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với USD).

Theo các chuyên gia của Dragon Capital, chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã khuyếch đại tác động của sự tăng giá thức ăn và năng lượng thế giới lên giá cả ở Việt Nam và gây ra lạm phát tăng nhanh so với các nước đó (hình 4).


Hình 4. Lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia

Theo cách nghĩ của lý thuyết kinh tế truyền thống đồng nội tệ (VND) yếu sẽ kích thích xuất khẩu, VND mạnh (lên giá) sẽ kích thích nhập khẩu và gây khó khăn cho xuất khẩu.

Tuy nhiên cách suy nghĩ này không hoàn toàn đúng. Với đồng VND yếu (xem hình 3) xuất khẩu của Việt Nam đúng là đã tăng trưởng rất ngoạn mục (năm 2007 tăng 22,5%, 4 tháng đầu năm 2008 tăng 27,6% (tất cả đều được tính bằng USD nếu trừ đi phần USD mất giá thì thành tích tăng trưởng xuất khẩu chưa hẳn đã tốt).

Thế nhưng nhập khẩu còn tăng nhanh hơn nhiều, 44% năm 2007 và 71% trong 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, làm cho nhập siêu ở mức báo động. Có thể thấy cách nghĩ truyền thống đã quá đơn giản hóa vấn đề và không thể đứng vững.

Với khái niệm phản thân của mình, George Soros [Giả kim thuật Tài chính, The Alchemy of Finance, tr.27-45 và 69-80] gợi ý cách suy nghĩ thực tiễn hơn nhiều.

Tỷ giá hối đoái mạnh (trong trường hợp của chúng ta tức là để VND lên giá) sẽ kiềm chế lạm phát: lương ổn định và giá các mặt hàng nhập khẩu rớt (đáng tiếc tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng ở ta quá nhỏ phản ánh chính sách “thay thế nhập khẩu” vẫn rất thịnh hành).

Theo ông (tr.69-70) nếu các mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu lớn (mà ở ta là như vậy) thì một nước vẫn có khả năng cạnh tranh bất chấp sự lên giá liên tục của đồng nội tệ như Tây Đức của các năm 1970 là một ví dụ.

Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Ông gọi một quan hệ vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy là một vòng ác luẩn quẩn (vicious circle) khi đồng nội tệ mất giá và lạm phát gia tăng và là vòng thiện (benign circle) khi điều ngược lại xảy ra.

Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo (thậm chí cả so với USD, xem Hình 3), lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này.

Việc nới lỏng biên độ tỷ giá vừa qua chỉ có tác động nhất thời. Theo các chuyên gia của Dragon Capital Ngân hàng Nhà nước đã dùng các công cụ chính sách thắt chặt tiền tệ (thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt trần lãi suất vừa qua mang tính hành chính và đã không có hiệu quả và không thể trì hoãn việc cải tổ chính sách tỷ giá.

Do thắt chặt tiền tệ đã xảy ra vấn đề thiếu thanh khoản, do bị áp trần lãi suất nên ngân hàng khó thu hút được tiền trong dân cư, kích thích người dân đầu tư và giữ vàng và/hay ngoại tệ. Các sàn giao dịch vàng đang đua nhau mở cửa là một dấu hiệu không mấy lành mạnh. Hơn nữa nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu ngoại tệ càng cao.

Nền kinh tế bị càng bị đô la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan hiếm là không khó hiểu. Các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến chênh lệch lãi suất USD ở trong nước và ngoài nước ngày càng doãng ra, điều này lại khuyến khích các dòng vốn ngắn hạn (đầu cơ hay cho ngân hàng trong nước vay ngắn hạn) chảy vào gây áp lực hơn nữa lên lạm phát.

Những phân tích của các chuyên gia của Dragon Capital và cách suy nghĩ “phản thân” của Soros đáng để cho các nhà hoạch định chính sách lưu ý và suy ngẫm.

Không thể dùng các biện pháp hành chính, không thể áp trần lãi suất vì làm như vậy chỉ khiến cho tình hình khó khăn thêm và là lợi bất cập hại. Nên để cho lãi suất phát huy tác dụng sàng lọc, lựa chọn của nó. Và cũng rất nên xem xét lại chế độ tỷ giá hối đoái.

* TS. Nguyễn Quang A

0 nhận xét:

Đăng nhận xét