|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
I. Cơ sở của
sự phân hóa không gian vùng Đồng bằng Sông Hồng
1. Cơ sở lý thuyết về sự phân hóa không gian của vùng địa
văn hóa
Quan niệm về vùng địa văn hóa là một quan niệm tương đối
tổng hợp trên cơ sở sự tác động qua lại giữa các yếu tố địa lý (đôi khi cả
các yếu tố lịch sử) với các yếu tố văn hóa – xã hội. Theo quan điểm này, vùng
địa văn hóa được xem như một thực thể văn hóa, hình thành trong quá trình
lịch sử lâu dài, là kết quả của sự thích ứng của cộng đồng dân cư với những
điều kiện tự nhiên nhất định và sự giao lưu, ảnh hưởng qua lại giữa các nhóm
dân cư trong vùng và với các vùng kế cận, từ đó hình thành nên một tổ hợp các
đặc trưng văn hóa chung, khiến người ta có thể phân biệt nó với vùng địa văn
hóa khác.
Như vậy, cơ sở chính để phân biệt các vùng địa văn hóa là
các đặc trưng văn hóa của từng vùng. Các đặc trưng này được thể hiện ở nhiều
lĩnh vực của đời sống văn hóa, cả vật chất lẫn tinh thần của cư dân như cách
thức sản xuất, các quan hệ xã hội, đời sống tinh thần, văn hóa – nghệ thuật…
Trong các yếu tố này cũng cần kể tới những đặc trưng về tâm lý và tính cách
tiêu biểu của các nhóm cộng đồng. Có thể nói, quan niệm về văn hóa ở đây
không chỉ giới hạn trong những lĩnh vực của đời sống tinh thần như nhiều
người vẫn quan niệm mà cần được mở rộng ra cả đời sống vật chất đặc biệt là
cách thức sinh hoạt và sản xuất. Bởi suy cho cùng, những lễ hội, những loại
hình văn hóa – nghệ thuật chỉ là một biểu hiện, một sự phản ánh của đời sống
sản xuất và sinh hoạt mà thôi.
Một vùng địa văn hóa bao giờ cũng có rất nhiều đặc trưng,
nhưng các đặc trưng này không thể hiện một cách đồng đều ở tất cả các lĩnh
vực của vùng văn hóa mà bao giờ cũng có những yếu tố trội. Và chính những yếu
tố này tạo nên cái “hồn” riêng, có vai trò khắc họa tính cách riêng của vùng
địa văn hóa. Bởi vậy khi nghiên cứu các vùng địa văn hóa cũng như sự phân hóa
không gian của các vùng rất cần phải chú ý đến các yếu tố trội này, chứ không
thể so sánh một cách máy móc hàng loạt các yếu tố văn hóa.
Trong việc hình thành các vùng địa văn hóa, vai trò của
các “hạt nhân tạo vùng” là vô cùng quan trọng. Đó thường là các trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hóa của cả vùng. Các trung tâm này giữ vai trò hướng
đạo về kinh tế, chính trị nên nó có khả năng tích hợp và thu hút các yếu tố
văn hóa xung quanh, từ các vùng ngoại vi, định hình và nâng cao lên một trình
độ mới, rồi từ đó lan tỏa và ảnh hưởng lại ngoại vi. Chính mối quan hệ giữa
các trung tâm và các vùng ngoại vi tạo nên những động lực cho sự biến đổi
không ngừng của các vùng địa văn hóa.
Bản thân văn hóa là một yếu tố động, luôn luôn biến đổi
theo cả chiều không gian và thời gian. Một yếu tố không thể không xem xét khi
nghiên cứu các vùng địa văn hóa là sự đan xen và giao thoa giữa các yếu tố
văn hóa của các vùng kế cận nhau. Sự đan xen này đã tạo nên những hành lang
chuyển tiếp văn hóa, là những ranh giới giữa các vùng địa văn hóa, trong đó
có sự chuyển tiếp của các sắc độ trên một không gian khá rộng. Bởi vậy, khi
nghiên cứu sự phân hóa không gian của các vùng văn hóa, người nghiên cứu phải
xác định một ranh giới cụ thể lên một thực thể mà dường như không có một ranh
giới rõ ràng nào. Tuy nhiên, việc phân định này không thể được tiến hành một
cách tùy tiện, duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở các đặc trưng và sắc độ địa
lý – văn hóa.
Trong nội bộ các vùng địa văn hóa cũng được phân hóa thành
các tầng bậc khác nhau với những phạm vi không gian rất khác nhau. Tùy theo
sự phân hóa không gian của các sắc thái văn hóa mà người ta có thể phân chúng
thành các tiểu vùng hay đơn vị nhỏ hơn. Càng ở tầng bậc thấp và phạm vi nhỏ
thì tính đồng nhất của các đặc trưng vùng văn hóa càng thể hiện cụ thể và rõ
nét hơn.
2. Những nhân tố tác động đến sự phân hóa không gian vùng
Đồng bằng Sông Hồng
2.1. Sự phân hóa của điều kiện tự nhiên
Vùng Đồng bằng Sông Hồng không rộng. Trong phạm vi ranh
giới của 10 tỉnh, thành phố hiện nay, tổng diện tích của vùng là khoảng
15.000 km2. Hơn nữa, nhìn một cách tổng quát, toàn bộ địa hình của vùng là
một đồng bằng châu thổ tương đối bằng phẳng. Do vậy, sự phân hóa của điều
kiện tự nhiên trong vùng không rõ rệt. Tuy nhiên, trải qua quá trình lịch sử,
do những tác động của con người thông qua các hoạt động trị thủy và thủy lợi,
nền nông nghiệp lúa nước cũng như quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa
trong giai đoạn hiện nay, thiên nhiên của Đồng bằng Sông Hồng bị biến đổi sâu
sắc. Chính quá trình biến đổi này đã tạo nên sự phân hóa của điều kiện tự
nhiên ở đây.
- Về mặt địa hình, đặc điểm cơ bản nhất của địa hình Đồng
bằng Sông Hồng là hiện tượng dốc thoải từ tây bắc xuống đông nam, khoảng từ
độ cao 10 – 15 m xuống độ cao mặt biển. Tuy vậy, ở mỗi địa phương, địa hình
lại cao thấp không đều, có khi giữa vùng đất cao vẫn có những chỗ trũng hoặc
ngược lại, ở những vùng thấp vẫn có những sống đất tự nhiên dưới dạng đồi
sót.
Với công việc trị thủy của con người, địa hình của Đồng
bằng Sông Hồng đang thay đổi. Để chinh phục đồng bằng và phát triển nghề
trồng lúa nước, ông cha ta (từ xa xưa, nhất là từ thời Lý) đã đắp các đê
sông, đê biển dựa trên cơ sở những sống đất cao tự nhiên. Hiện nay, hệ thống
đê này đã dài gần 2000 km, khiến cho Đồng bằng Sông Hồng bị chặn đứng trong
quá trình bồi đắp tự nhiên của nó[1],
khiến cho bên cạnh các sống đất cao lại có nhiều nơi thấp úng vào mùa mưa,
đồng thời lại có nhiều ao hồ. Nhiều ô khép kín đã được hình thành như ô Hà
Đông (giữa sông Hồng, sông Đáy và sông Phủ Lý), ô Hà Nam Ninh (giữa sông
Hồng, sông Đáy, sông Phủ Lý và sông Nam Định), ô Bắc Hưng Hải (giữa sông
Hồng, sông Đuống, sông Luộc và sông Thái Bình). Ra phía biển lại có những ô
bao quanh bởi các đê ngăn nước mặn như ô Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, An Dương.
Như vậy, nhìn chung có thể chia địa hình của Đồng bằng
Sông Hồng thành 3 khu vực chính:
+ Khu vực rìa đồng bằng là khu vực của vùng núi Ba Vì, Tam
Đảo và một phần núi đá vôi thuộc vùng núi đá vôi Hòa Bình – Thanh Hóa. Đây
chủ yếu là các đồi núi thấp.
+ Khu vực trung tâm đồng bằng là khu vực được bồi đắp bởi
phù sa mới của của sông Hồng. Địa hình ở đây cao thấp không đều và bị chia
cắt mạnh bởi hệ thống đê
+ Khu vực duyên hải là các dải cồn cát tỏa rộng. Địa hình
nhìn chung rất bằng phẳng và thấp dưới 1m, trừ những cồn cát nổi lên trên các
ruộng xung quanh khoảng trên dưới 1m.
- Khí hậu của Đồng bằng Sông Hồng nhìn chung tương đối
đồng nhất do diện tích của vùng tương đối nhỏ. Sự khác biệt lớn nhất là sự
gia tăng của nhiệt độ và độ ẩm theo chiều tiến dần ra biển. Chính bởi vậy,
nếu ở vùng rìa đồng bằng ở phía bắc có mùa đông lạnh rét, khô và có tháng hạn
thì đến vùng trung tâm đã không còn tháng rét và tháng hạn, và sang vùng
duyên hải thì mùa đông ấm, mưa phùn nhiều và mùa hạ chịu ảnh hưởng mạnh của
bão.
- Đặc điểm thủy văn của Đồng bằng Sông Hồng khá phức tạp
vì đây là hạ lưu của hai hệ thống sông: Sông Hồng và Sông Thái Bình với hàng
loạt nhánh đổ ra biển. Mạng lưới sông ngòi trong Đồng bằng Sông Hồng vừa bao
gồm hạ lưu các sông lớn với các chi lưu dày đặc, vừa là hệ thống kênh đào, có
sông đổ ra biển, nhưng cũng có sông chỉ chảy trong phạm vi một ô trũng, gọi
là sông nội địa. Mật độ lưới sông tự nhiên khoảng 0,5 - 1 km2, tại vùng tam
giác châu hiện đại mật độ tăng lên tới 1,3 km/km2, tại đồng bằng sông Hồng
mật độ giảm xuống 0,5-0,8km/km2, còn tại đồng bằng sông Thái Bình có nhích
lên một chút 0,6 - 0,9 km/km2. Độ dốc chung của sông ngòi rất nhỏ, chỉ 2 - 5
cm/km2, dòng sông uốn khúc quanh co và nhiều chi lưu để đổ ra biển nhanh
chóng qua nhiều cửa.
- Thổ nhưỡng của vùng Đồng bằng Sông Hồng nhìn chung tương
đối đa dạng và cũng có thể được phân chia thành những khu vực trên cơ sở địa
hình
+ Ở vùng rìa đồng bằng phía Bắc và phía Tây lãnh thổ là
một dải đất bạc màu, tuổi già hơn phù sa mới, được gọi là phù sa cũ (để phân
biệt với loại phù sa già hơn nữa, tuổi Đệ tứ hạ, trên các bậc thềm gọi là phù
sa cổ), diện tích khoảng 100000 ha. Đất bị bạc màu do quá trình rửa trôi diễn
ra từ lâu, đồng thời cũng là đất đã được sử dụng canh tác bất hợp lý từ lâu đời.
Tầng đất mặt bạc trắng, chua và nhẹ hơn tầng dưới, giữ nước, giữ phân kém,
nghèo chất dinh dưỡng. Dưới tầng đất cầy thường gặp kết von, đôi khi có đá
ong. Ở các vùng núi đá vôi có thể gặp đất terra rossa.
+ Vùng trung tâm đồng bằng có các loại đất phù sa. Loại
đất này bị tác động mạnh bởi hệ thống đê điều. Ở vùng ngoài đê là đất phù sa
được bồi đắp hàng năm và trong đê là đất phù sa không được bồi đắp. Tính chất
của đất cũng khác nhau giữa hai hệ thống sông: đất phù sa sông Hồng trung
tính và ít chua còn phù sa sông Thái Bình thì tương đối chua và kém màu mỡ
hơn. Ở các ô trũng phổ biến là đất phù sa glây, thậm chí một số nơi còn có
đất lầy thụt. Các loại đất này đã và đang bị biến đổi mạnh do hoạt động sản
xuất của con người, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước.
+ Tại vùng ven biển tập trung chủ yếu là đất mặn và đất
phèn. Đất mặn phân bố chủ yếu ở vùng cửa sông Hồng từ Tiền Hải (Thái Bình)
đến Kim Sơn (Ninh Bình). Do tính chất chua của phù sa sông Thái Bình nên vùng
cửa sông chủ yếu là đất phèn ở Hải Phòng và Kiến Thụy (Thái Bình).
- Diện tích rừng ở Đồng bằng Sông Hồng không nhiều và tập
trung chủ yếu ở hai khu vực: khu vực rìa đồng bằng (ở Vĩnh Phúc và Ninh Bình,
khoảng 55.000 ha) và khu vực ven biển (một số rừng ngập mặn ở Thái Bình và Nam Định vởi
tổng diện tích khoảng 16.000 ha)
Như vậy, có thể thấy sự phân hóa không gian của điều kiện
tự nhiên vùng Đồng bằng Sông Hồng chủ yếu trên cơ sở sự phân hóa của điều
kiện địa hình. Trong đó cần kể đến vai trò của con người đối với các nhân tố
này. Con người vừa tìm cách thích nghi một cách tích cực với tự nhiên ở các
khu vực khác nhau, vừa từng bước chinh phục vùng đồng bằng màu mỡ này để phục
vụ cho nhu cầu của mình. Có thể nói, con người đã biến đổi sâu sắc thiên
nhiên của vùng, tạo nên những cảnh quan mới, cảnh quan văn hóa. Từ đó, con
người đã khiến cho sự phác biệt về không gian của những nhân tố tự nhiên
trong vùng càng trở nên rõ nét hơn
2.2. Lịch sử khai thác lãnh thổ Đồng bằng Sông Hồng
Theo các di chỉ khảo cổ, con người đã sinh sống tại khu
vực thềm phù sa cổ (thuộc Vĩnh Phúc và Bắc Ninh hiện nay) hàng vạn năm trước
do có địa hình và khí hậu thuận lợi. Cách đây khoảng 7000 – 4000 năm, con
người bắt đầu di chuyển từ vùng đồi xuống định cư tại châu thổ Đồng bằng Sông
Hồng. Cư dân thời đó không phải là người Kinh mà có nguồn gốc Môn – Khơme,
Thái – Tày và Nam
đảo. Trải qua rất nhiều nền văn minh khác nhau, vùng Đồng bằng Sông Hồng tiếp
tục là nơi tập trung rất nhiều cư dân sinh sống với mật độ cao. Trên cơ sở
một vùng đồng bằng màu mỡ, người dân trong vùng đã phát triển mạnh nghề trồng
lúa nước để cung cấp cho lượng dân cư đông đảo đó. Việc trồng lúa nước đã làm
thay đổi căn bản đặc điểm của đất lúa nước, thay đổi địa hình đồng bằng, làm
thay đổi căn bản đặc điểm sinh thái từ các khu hệ động thực vật hoang dại
thành các đồng ruộng lúa nước. Trong quá trình lịch sử, cộng đồng làng xã đã
cùng nhau đắp đê chống lụt, đào kênh mương dẫn nước chống hạn. Ở khu vực ven
biển, người dân còn quai đê, lấn biển khiến cho lãnh thổ không ngừng được mở
rộng. Lương thực dồi dào và thời gian nông nhàn dẫn đến nghề thủ công phát
triển. Tính chất tự cấp tự túc được thể hiện rõ nét trong đặc điểm sản xuất
của cộng đồng dân cư nơi đây đã góp phần tạo nên một trong những đặc trưng cơ
bản của văn hóa vùng (cũng là tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam) là tính
cấu kết cộng đồng rất cao của các làng xã. Có thể nói rằng Làng là hạt nhân
của xã hội Việt Nam, là
sức sống của đất nước Việt Nam,
văn hóa Việt Nam.
Bắt đầu từ thời kì Pháp thuộc, nền kinh tế của Đồng bằng
Sông Hồng đã có nhiều thay đổi. Từ nền nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc,
các hoạt động kinh tế của vùng đa dạng hơn với các hoạt động công nghiệp và
dịch vụ. Do đó, sự tác động của con người vào tự nhiên càng sâu sắc hơn. Cho
đến nay, Đồng bằng Sông Hồng trở thành vùng có mức độ tập trung công nghiệp
cao thứ hai cả nước (sau Đông Nam Bộ). Quá trình đô thị hóa trong vùng cũng
diễn ra tương đối mạnh với một mạng lưới các điểm dân cư dày đặc. Chính vì
vậy, ở Đồng bằng Sông Hồng hiện nay, tỉ lệ đất chuyên dùng và thổ cư trong cơ
cấu sử dụng đất là cao nhất so với cả nước. Môi trường của vùng cũng đang
biến đổi do các hoạt động sản xuất, nhất là sản xuất công nghiệp. Do đó môi
trường tự nhiên của vùng đã và đang thay đổi ngày càng sâu sắc và toàn diện
hơn.
Lịch sử khai thác lãnh thổ không chỉ ảnh hưởng đến các đặc
điểm về tự nhiên và sản xuất của vùng mà còn là nhân tố tác động đến sự phân
hóa của các đặc điểm xã hội – văn hóa trong vùng. Khu vực rìa đồng bằng, nơi
được khai phá sớm nhất cũng là nơi có mật độ dân cư sầm uất và cho đến hiện
nay là nơi lưu giữ nhiều những dấu tích của nền văn hóa cổ xưa của vùng đồng
bằng. Khu vực trung tâm lại phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất cũng
như nền văn hóa của đồng bằng với đặc điểm là đa dạng, cập nhật. Đây chính là
khu vực giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển của vùng Đồng bằng Sông Hồng
và vị trí này còn được duy trì cho đến hiện nay. Còn khu vực duyên hải có
lịch sử quần cư trẻ nhất nên đặc điểm nổi bật là sự đa dạng cho quá trình pha
trộn cư dân từ mọi nơi đến. Do vậy, lịch sử khai thác lãnh thổ cùng với điều
kiện tự nhiên đã tạo nên bức tranh phân hóa không gian của vùng địa văn hóa
Đồng bằng Sông Hồng mà chúng ta có thể phân tích dưới đây.
II. Sự phân hóa không gian vùng Đồng bằng Sông Hồng
Những yếu tố tự nhiên và lịch sử khai thác lãnh thổ đã ảnh
hưởng đến phương thức sản xuất và sinh hoạt của con người vùng Đồng bằng Sông
Hồng. Từ đó đã tạo nên các đặc trưng văn hóa của con người nơi đây. Cũng như
điều kiện tự nhiên, văn hóa của vùng không đồng nhất mà khá đa dạng. Điều này
được thể hiện rõ rệt trong các sắc thái văn hóa mang tính địa phương. Các sắc
thái văn hóa này phù hợp và xuất phát từ những sự khác biệt về điều kiện tự
nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử và sự giao
lưu văn hóa của mỗi địa phương
Có thể phân chia vùng địa văn hóa Đồng bằng Sông Hồng
thành 3 tiểu vùng: tiểu vùng rìa đồng bằng, tiểu vùng trung tâm và tiểu vùng
duyên hải. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ là tương đối và ranh giới của các
tiểu vùng cũng chỉ mang tính chất quy ước. Bởi như đã nói ở trên, có sự giao
lưu và chuyển tiếp tương đối rộng của các yếu tố tự nhiên và nhất là các yếu
tố văn hóa – xã hội.
1. Tiểu vùng rìa đồng bằng
* Ranh giới và điều kiện tự nhiên
Ranh giới của tiểu vùng có thể giới hạn thuộc địa bàn các
huyện giáp ranh với vùng trung du và miền núi phía Bắc thuộc các tỉnh Vĩnh
Phúc (Tam Đảo, Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên), Hà Nội (Thạch Thất, Phúc
Thọ, Ba Vì, Sơn Tây, Quốc Oai, Đông Anh, Sóc Sơn), Bắc Ninh (Yên Phong, Quế
Võ, Tiên Du, Từ Sơn), Hải Dương (Kinh Môn, Chí Linh) và Hải Phòng (Thủy
Nguyên). Ở phía Nam,
tiểu vùng cũng bao gồm một số huyện thuộc tỉnh Ninh Bình (Tam Điệp, Nho Quan)
và một phần thuộc tỉnh Hòa Bình cũ (nay đã được sát nhập về Hà Nội). Đây là
vùng không bị ngập khi biển tiến cực đại và hình thành các cảnh quan đồng
bằng thềm phù sa cổ.
Địa hình của tiểu vùng này là các đồng bằng xen đồi sót có
độ cao dưới 150m với đỉnh bằng và sườn thoải. Trong đó nổi lên một số dãy và
đỉnh núi như dãy Tam Đảo, Ba Vì, núi Nhan Biền…
Về cấu tạo địa chất, ở các đồi gò, trên cùng là lớp cát
sỏi có lẫn sét. Ở nhiều nơi, do lớp phủ thực vật bị phá hủy và tác động của
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa đã xảy ra quá trình đá ong hóa. Bên dưới lớp cát
sỏi là lớp cuội sỏi và dưới cùng là lớp sét mịn. Cấu tạo địa chất này cho
thấy tiểu vùng rìa đồng bằng cũng đã trải qua quá trình bồi tụ tâm giác châu,
sau đó là quá trình lũ tích và sườn tích. Đến giai đoạn Tân kiến tạo, khu vực
này được nâng lên thành bậc thềm và bắt đầu bị chia cắt và xâm thực thành các
đồi sót.
Đặc điểm nổi bật của khí hậu tiểu vùng là tính chất nhiệt
đới ẩm gió mùa rõ rệt với một mùa đông lạnh. Ở phía Bắc, do chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ hơn của gió mùa đông bắc nên khí hậu lạnh và khô hơn các khu vực khác
với mùa đông kéo dài trên 3 tháng và có tháng nhiệt độ xuống dưới 15oC. Càng
tiến ra biển, nhiệt độ và độ ẩm càng tăng. Về phía Nam, mùa đông dịu hơn và không
còn tháng rét, mùa khô cũng rút ngắn lại và không còn tháng hạn.
Thổ nhưỡng của vùng chủ yếu là đất feralit, thay đổi từ
nâu vàng đến nâu đỏ vàng và đất xám bạc màu trên phù sa cổ, một số nới có thể
bị glây hóa. Đất có thành phần cơ giới nhẹ với kết cấu rời rạc, nghèo chất
dinh dưỡng, chua, khả năng giữ nước và phân kém. Tại các thung lũng giữa các
đồi có đất tích tụ phù sa, có cả phù sa mới.
* Đặc điểm dân cư và kinh tế
Về đặc điểm dân cư, như đã nói ở trên, cư dân bản địa của
Đồng bằng Sông Hồng ban đầu không phải là người Việt mà là người Môn – Khơme
và người Tày - Thái. Trong quá trình di cư và phát triển sản xuất, hai nhóm
dân cư này đã tiếp xúc với cộng đồng người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam đảo để
hình thành nên người Việt cổ. So với các tiểu vùng khác của Đồng bằng Sông
Hồng, đây là nơi có lịch sử quần cư lâu đời nhất. Theo các di chỉ khảo cổ, xã
Đồng Trúc (Huyện Thạch Thất – Hà Nội) là nơi đã xuất hiện cộng đồng dân cư
cách đây trên 2000 năm, hiện còn lưu giữ được nhiều di vật.
Vùng rìa đồng bằng là khu vực được khai thác sớm nhất so
với các tiểu vùng khác của Đồng bằng Sông Hồng, là một trong những cái nôi
của người Việt Nam.
Hình thức quần cư phổ biến của người dân trong khu vực đồng cao là những xóm
nhỏ, xóm nọ cách xóm kia khá xa vì hầu hết các gia đình đều có vườn rộng trên
những khoảng không gian tương đối bằng phẳng. Tại các vùng đồi gò, nhà cửa
thường tập trung ở vùng chân đồi để dành đất cho canh tác nên nhà cửa gần
nhau hơn. Đường đi lối lại phần lớn là những đường mòn, không có đường trục
rõ rệt. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, nhờ sự phát triển của nền kinh tế cũng
như các hoạt động giao lưu, trao đổi khác, hệ thống đường xá ở đây đã được cải
thiện đáng kể với hàng loạt các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ vì khu vực rìa đồng
bằng này chính là cầu nối giữa vùng trung du và miền núi phía Bắc với tiểu
vùng trung tâm châu thổ, nơi có thủ đô của cả nước.
Để phù hợp với địa hình cao ráo của các gò đồi và bậc
thềm, người dân trong khu vực thường trồng các loại cây ưa cạn, còn việc cấy
lúa diễn ra chủ yếu vào mùa mưa. Trên các đồi thấp, người nông dân Bắc Bộ
thường chọn phương thức canh tác vườn đồi để trồng hoa màu, trồng các cây ăn
quả trong đó có niều loại đặc sản như dứa Tam Nông, Đồng Dao, vải Phú Động…
Còn ở các vùng thấp hơn là khu vực của những cánh đồng lúa và hoa màu với
hàng trăm giống loài khác nhau, nhiều loại ngon có tiếng. Với sự hình thành
và phát triển của nền nông nghiệp, lớp phủ thực vật trong khu vực đã bị phá
hủy và cho đến nay hầu như không còn dấu vết của thảm rừng nhiệt đới gió mùa
với thế giới động vật phong phú và đa dạng xưa kia. Tuy nhiên những dấu ấn
của rừng núi vẫn còn in đậm trong trong các phương thức canh tác và các tập
tục văn hóa của cư dân nơi đây.
Việc canh tác theo phương thức “đao canh hỏa chủng”[2]
và nền nông nghiệp dùng cày khiến cho nguồn tài nguyên đất ở đây bị xói mòn
và bạc màu, khiến cho khả năng canh tác nông nghiệp ở đây bị suy giảm đáng
kể. Cho đến hiện nay, tại khu vực này, hình thức canh tác nhỏ lẻ theo kiểu hộ
gia đình vẫn đang được tiếp tục nhưng các trang trại đang ngày càng được mở
rộng về số lượng và quy mô. Sự phát triển của hình thức sản xuất mới này giúp
cho hiệu quả sản xuất nông nghiệp trong vùng tăng lên đáng kể. Người nông dân
trong khu vực đã bắt đầu làm quen với kiểu canh tác quy mô lớn, áp dụng nhiều
khoa học kĩ thuật và máy móc vào trong sản xuất. Nền nông nghiệp tự cấp tự
túc truyền thống đang dần được thay thế bằng nông nghiệp hàng hóa hiện đại.
Với đặc điểm của một vùng bán sơn địa, điều kiện sản xuất
nông nghiệp có một số hạn chế, lại là vùng được khai phá từ lâu đời với sự
tập trung dân cư đông đúc, dễ hiểu vì sao vùng rìa đồng bằng lại là nơi hình
thành rất nhiều làng nghề thủ công. Có thể nói, đây là khu vực các ngành nghề
thủ công phát triển vào bậc nhất của Đồng bằng Sông Hồng nói riêng và cả nước
nói chung. Đó là các làng gốm Phù Lãng (Quế Võ – Bắc Ninh), Hương Canh (Bình
Xuyên – Vĩnh Phúc); làng rèn Đa Hội (Từ Sơn – Bắc Ninh), Nga Hoàng (Quế Võ –
Bắc Ninh); làng sơn Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc Ninh); dệt Hữu Bằng, chạm khắc gỗ
ở Phù Khê, Đồng Kỵ (Từ Sơn – Bắc Ninh), Chàng Sơn (Thạch Thất – Hà Nội); chạm
khắc đá Tràng Kênh (Thủy Nguyên – Hải Phòng)… Hiện nay, số lượng các làng
nghề đang gia tăng không ngừng nhằm mục đích giải quyết việc làm cho một lực
lượng lao động lớn và nâng cao thu nhập của người dân. Ở các làng nghề này,
tính chất thủ công truyền thống đã và đang được thay thế bằng nhiều loại máy
móc và công nghệ hiện đại hơn. Với đội ngũ thợ thủ công đông đảo và có tay
nghề cao, các làng nghề ở đây không chỉ sản xuất các sản phẩm phục vụ nhu cầu
của người dân địa phương mà còn có mặt ở nhiều vùng miền của đất nước, thậm
chí còn được xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Tiểu vùng rìa đồng bằng nằm ở vị trí giao thông thuận lợi,
lại có nghề nông và thủ công phát triển, nên từ xa xưa nơi đây việc giao lưu
buôn bán đã rất tấp nập. Ở nông thôn, hệ thống chợ làng, chợ vùng đã được
hình thành trên khắp lãnh thổ, kích thích sản xuất trong vùng phát đạt. Các
chợ làng, chợ vùng đã dần phát triển với quy mô lớn hơn và cách thức tổ chức
hiện đại hơn. Tuy vậy, hình ảnh của các khu chợ quê vẫn đi sâu vào tiềm thức
của mỗi người con của mảnh đất này, trở thành một nét đặc sắc trong văn hóa
của khu vực.
* Đặc điểm văn hóa
Khu vực rìa đồng bằng còn đóng vai trò vô vùng quan trọng
trong lịch sử và nhất là trong đời sống văn hóa của cả dân tộc. Vùng đất này
luôn giữ vị trí là “phên dậu”, là cửa ngõ cho vùng kinh đô Thăng Long xưa,
nay là thủ đô Hà Nội. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam,
đây là chiến trường diễn ra các cuộc quyết chiến giữa quân dân ta với các đạo
quân xâm lược. Tiêu biểu có thể kể đến là phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông
Cầu) tại huyện Yên Phong (Bắc Ninh) do Lý Thường Kiệt dựng nên để ngăn bước
quân xâm lược nhà Tống. Hay Cửa Hát Môn (Phúc Thọ - Hà Nội) là nơi Hai Bà
Trưng nhảy xuống tuẫn tiết khi thất thế trước quân nhà Hán do Mã Viện chỉ
huy. Đồng thời đây cũng là địa bàn giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Việt –
Hán. Vị trí địa lý và điều kiện lịch sử này đã tạo cho con người trong khu
vực một thế ứng xử hài hòa cởi mở trong giao tiếp. đồng thời cũng tạo nên
những sắc thái văn hóa độc đáo.
Nhắc đến vùng rìa đồng bằng là nhắc đến mảnh đất của các
địa danh và các truyền thuyết gắn với các danh nhân như Thánh Gióng, An Dương
Vương, Hai Bà Trưng, Phùng Hưng, Ngô Quyền… Những địa danh này đã tạo nên ý
thức về cội nguồn và ý thức dân tộc mạnh mẽ. Đồng thời, đây cũng là nơi sản
sinh ra nhiều danh nhân theo con đường khoa bảng. Nền văn hóa mảnh đất này
rất phong phú và đa dạng với nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật.
Về các loại hình nghệ thuật dân gian có thể kể đến nhiều
hình thức diễn xướng như chèo, tuồng, hát ả đào và đặc biệt là các loại dân
ca như hát ví, trống quân, quan họ. Trong đó tiêu biểu nhất, tạo nên sắc thái
độc đáo nhất của văn hóa truyền thống trong khu vực chính là dân ca quan họ
tại các làng, xã ở Bắc Ninh. Đây là vốn văn hóa vô cùng quý báu không chỉ của
vùng mà của cả dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay, dân ca quan họ đã
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ngoài ra
có thể kể đến một số hình thức sinh họat văn hóa khác của tiểu vùng như hát
trống quân ở Đức Bác (Lập Thạch – Vĩnh Phúc), chèo Chái Hê (huyện Tiên Du –
Bắc Ninh), hát Rô (Quốc Oai – Hà Nội).
Một hình thức khác tiêu biểu cho sinh hoạt vắn hóa dân
gian của khu vực này là các lễ hội. Có thể nói, đây là nơi tập trung nhiều kễ
hội nhất của cả nước với nhiều hoạt động vừa có ý nghĩa vừa thú vị và sôi
nổi. Lễ hội của tiểu vùng cũng tương đối đa dạng cả về loại hình. Có những lễ
hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp, có những lễ hội liên quan đến các
danh nhân và di tích lịch sử (Hội Dóng, Hội Lý Bát Đế), lại có những lễ hội
gắn với sinh hoạt văn hóa của người dân (Hội Lim, Hội Ó) và những lễ hội gắn
với đời sông tâm linh, tín ngưỡng (hội chùa Phật Tích, Hội chùa Bách Môn).
Quy mô của các lễ hội cũng thay đổi đa dạng từ thu hút cả một vùng (thường
tồn tại ở vùng nam sông Cầu) đến một vài làng hoặc thậm chí chỉ người dân
trong làng (hội làng). Hầu như bất kì một làng quê nào trong tiểu vùng cũng
có lễ hội. Chỉ tính riêng huyện Quế Võ (Bắc Ninh) trong năm đã có tới 12 lễ
hội. Lễ hội (đặc biệt là hội làng) là một sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu, nhằm
biểu dương và làm tăng thêm sức mạnh cộng đồng trong việc giữ làng, giữ nước.
Với bề dày lịch sử và văn hóa hàng nghìn năm, tiểu vùng
rìa đồng bằng là nơi tập trung nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh.
Đó là những công trình kiến trúc, điêu khắc có ý nghĩa lớn cả về lịch sử, xã
hội và nghệ thuật, tiêu biểu nhất là những đình, chùa… Có thể nói, không đâu
trên đất nước Việt Nam
lại lưu giữ lại nhiều di tích cổ như vùng rìa đồng bằng này. Đó là những các
công trình kiến trúc, điêu khắc trải dài suốt mấy nghìn năm, có ý nghĩa lịch
sử, xã hội và nghệ thuật đặc sắc như đình, chùa, tập trung nhất ở tỉnh Bắc
Ninh (chùa Phật Tích – Tiên Du, đình Diềm – Yên Phong được xây dựng từ năm
1692, đình Phù Lưu – Yên Phong, đình Hồi Quan – Từ Sơn, đình Đình Bảng – Từ
Sơn, đình Đồng Kị - Từ Sơn…). Ngoài ra còn có các kiến trúc mộ cổ, điêu khắc
gỗ, đất nung, các tượng thờ cũng còn lưu lại khá nhiều, tiêu biểu như tháp
Bình Sơn (huyện Lập Thạch – Vĩnh Phúc), đình Tây Đằng (Ba Vì – Hà Nội), đình
Tam Canh (Bình Xuyên – Vĩnh Phúc)…
2.2. Tiểu vùng trung tâm
* Ranh giới và điều kiện tự nhiên
Tiểu vùng trung tâm Đồng bằng Sông Hồng có ranh giới
phía Tây là Sông Đáy, phía Đông tới Hải Phòng, phía Bắc từ sông Hồng, sông
Đuống thoải dần về phía duyên hải. Châu thổ này được hình thành bởi sự bồi tụ
phù sa của hệ thống sông Hồng là chính.
Nằm ở hạ lưu của lưu vực sông Hồng, hệ thống sông ngòi của tiểu vùng tương
đối dày đặc với mật độ khoảng 2 – 3 km/km2. Tuy nhiên, chế độ lũ của sông
ngòi ở đây phức tạp, lũ lên nhanh và rút chậm nên ngập lụt thường xuyên chảy
ra. Ngoài ra, trên các sông ngòi, ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh, mùa khô
có khi lên tới tận Hà Nội, còn mùa mưa cũng tới Hưng Yên, Hải Dương. Do hiện tượng
uốn khúc mạnh mẽ của sông Hồng, trên địa bàn đã hình thành nên nhiều hồ móng
ngựa và các ao hồ vốn là dấu vết của các lòng sông cũ
Địa hình của tiểu vùng tương đối bằng phẳng, có hướng thấp
dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, tuy nhiên, sự chênh lệch hầu như không rõ rệt.
Một trong những đặc điểm nổi bật của tiểu vùng, bên cạnh hệ thống đê điều là
sự hình thành của rất nhiều hồ ao vốn là những lòng sông cũ và những vùng đất
trũng úng. Điều này khiến cho tự nhiên của tiểu vùng cũng có sự phân hóa nhất
định, chủ yếu là về điều kiện thủy văn và đất đai, từ đó ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp của tiểu vùng.
Địa hình của khu vực chịu tác động mạnh mẽ của hoạt động
nông nghiệp. Do điều kiện thủy văn, trong quá trình di cư từ vùng thềm phù sa
cổ xuống khai thác vùng châu thổ, con người phải quai đê ngăn mặn và đắp đê
dọc các triền sông để chống lũ. Chính sự cân thiệp từ khá sớm của con người
vào tự nhiên của châu thổ đã làm thay đổi quá trình bồi đắp đồng bằng, khiến
cho bề mặt đồng bằng không hoàn toàn bằng phẳng, mà tạo nên các ô trũng, thậm
chí có nơi thấp hơn mực nước biển 0,35m. Đặc biệt vào mùa mưa, nước dồn đến
làm ngập lụt một vùng kéo dài từ Thanh Oai qua Phủ Lý xuống tới Nam Định
Ở trung tâm của Đồng bằng Sông Hồng, tiểu vùng là nơi tập
trung các loại dất phù sa: đất phù sa được bồi hàng năm ở ngoài đê, trong đê
có đất phù sa trung tính ít chua của sông Hồng, đất phù sa chua của sông Thái
Bình. Ở một số khu vực có hiện tượng phù sa sông Hồng phủ lên trên phù sa
sông Thái Bình nên ít chua hơn và màu mỡ hơn.
Bảng: Đặc điểm của các loại đất phù sa ở Đồng bằng Sông
Hồng
Ở những vùng trũng phổ biến là đất phù sa glây, bị biến
đổi do trồng lúa nước. Còn ở một số vùng trũng có đất lầy thụt, phân bố chủ
yếu ở Nam Định, Ninh Bình,
Hà Nam.
Trong những năm gần đây, đã tiến hành tiêu nước để cải tạo các loại đất này
nhằm mục đích thâm canh và tăng vụ.
Trên địa bàn của tiểu vùng hầu như không còn dâu vêt của
các hệ sinh thái tự nhiên. Thay vào đó là các hệ sinh thái nông nghiệp đã
được khai thác và phát triển hàng vạn năm.
* Dân cư và kinh tế
Tiểu vùng trung tâm của Đồng bằng Sông Hồng cũng là một
trong những cái nôi của người Việt cổ. Những dấu vết thời tiền sử của con
người chủ yếu được tìm thấy ở phần đồng bằng giữa sông Đáy và sông Hồng. Đó
là các di chỉ khảo cổ thời Hùng Vương, nhất là thời An Dương Vương như trống
dồng, thạp, vũ khí, công cụ sản xuất, các di tích mộ táng…
Từ sau thời Hùng Vương, tiểu vùng trung tâm đã thay thế
vùng rìa đồng bằng trở thành trung tâm của đất nước, trở thành cái nôi tạo
dựng các nền văn minh, đặc biệt là văn minh Thăng Long. Từ Cổ loa Thời An
Dương Vương, đến Luy Lâu, Long Biên trong thời kì Bắc thuộc, từ Hoa Lư thời
Đinh – Tiền Lê, đến Thăng Long, tiểu vùng trung tâm đã chứng tỏ vị thế trái
tim đầu não của cả nước, và đến nay, vị thế đó vẫn được khẳng định.
Hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi cho quá trình quần
cư, tiểu vùng trung tâm trở thành nơi tập trung dân cư sầm uất nhất cả nước
suốt chiều dài lịch sử và cho đến ngày nay. Cho đến hiện nay, mật độ dân số
của tiểu vùng lên tới 1500 – 2000 người/km2. Trong đó có những khu vực, đặc
biệt là ở nội thành các thành phố lớn (Nam Định, Hải Phòng và nhất là Hà
Nội), mật độ có thể đạt tới hàng chục nghìn người/km2. Số lượng dân cư quá
lớn tạo sức ép nhiều mặt lên nền kinh tế, xã hội và tài nguyên thiên nhiên.
Vùng trung tâm Đồng bằng Sông Hồng là ví dụ tiêu biểu cho hiện tượng “đất
chật, người đông”, “người khôn, của khó”.
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đây là vùng xuất cư, nhất
là trong thế kỉ XX. Việc chuyển cư chủ yếu gắn với việc phân bố lại lực lượng
sản xuất, xây dựng các vùng kinh tế mới tại Tây Bắc, Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ. Mặt khác, luồng nhập cư từ các tỉnh ngoài vào vùng cũng rất lớn và có xu
hướng tăng lên, gắn với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Về kinh tế, hoạt động nông nghiệp vẫn là hoạt động chính
của đại bộ phận dân cư trong tiểu vùng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay,
ngành mang lại thu nhập lớn nhất và đóng vai trò quan trọng nhất trong cơ cấu
kinh tế của địa phương lại là ngành dịch vụ, sau đó là công nghiệp – xây
dựng, còn nông nghiệp lại chiếm tỉ trọng nhỏ nhất.
Nền nông nghiệp của tiểu vùng là nền nông nghiệp thâm canh
cao. Do phát triển trên nền một châu thổ trù phú, ngay từ xưa, người nông dân
trong vùng đã khai thác nguồn tài nguyên đất màu mỡ để trồng lúa nước, nhằm
cung cấp lượng thưc cho một số lượng dân cư đông đúc. Trong những năm gần
đây. Việc áp dụng kĩ thuật thâm canh ngày càng đêm lại hiệu quả cao. Tuy
nhiên, chính sự phát triển của nền nông nghiệp này đã tác động mạnh mẽ lại tự
nhiên của vùng. Từ hàng nghìn năm trước, từ khi di chuyển từ vùng rìa đồng
bằng xuống, để phát triển nghề trồng lúa nước, ông cha ta dã bền bỉ trị thủy
và làm thủy lợi. Việc đắp đê và cải tạo đồng bằng quy mô lớn được bắt đầu từ
triều Lý và kéo dài cho đến ngày nay. Hiện nay việc trị thủy hệ thống Sông
Hồng được tiến hành tổng hợp: cả củng cố hệ thống đê điều, nạo vét lòng sông…
Với sự hình thành của hệ thống đê, các ô trũng vốn được hình thành tự nhiên
do các nhánh sông bao bọc càng trở nên trũng hơn, và hàu hết đầt đồng bằng
trở thành đất phù sa không được bồi đắp hàng năm.
Việc trồng lúa nước cũng dã làm thay đổi căn bản đặc điểm
của đất lúa nước, làm thay đổi căn bản các khu hệ động thực vật hoang dại,
tạo ra các hệ sinh thai đồng ruộng lúa nước. Nền nông nghiệp lúa nước thâm
canh cao hiện nay sử dụng nhiều phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực
vật và đang đe dọa ô nhiễm môi trường đất và môi trường nước, nhất là ở vùng
nông nghiệp ngoại thành các thành phố lớn.
Tuy nhiên, cho đên nay, nông nghiệp ở tiểu vùng
trung tâm vẫn chủ yếu là nông nghiệp dựa vào nguồn lao động dư thừa. để giải
quyết tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn và khắc phục tính mùa vụ trong
sử dụng lao động nông nghiệp, cũng như ở tiểu vùng rìa đồng bằng, ở tiểu vùng
trung tâm, rất phổ biến các làng nghề. Người nông dân ở đây có nhiều nghề
phụ, từ chế biến lương thực – thực phẩm (làng Vòng làm cốm, làng Phú Đô làm
bún, làng Thanh Trì làm bánh cuốn, bánh đậu xanh hải Dương…) đến các hàng
tiểu thủ công nghiệp. Sự phát triển của các làng nghề thủ công truyền thống
không chỉ trong phạm vi các làng quê vùng nông thôn mà còn phát triển và mở
rộng ra các vùng đô thị, tiêu biểu nhất là thủ đô Thăng Long – Hà Nội với 36
phố phường. các phường thợ hay làng thủ công có khi khởi phát ngay tại địa
phương, có khi do những người thợ thủ công vùng quê sản xuất đem ra bán rồi
di dân lập phường thợ ở kinh kỳ. Các mặt hàng sản xuất của các phường thợ này
đã được dùng để đặt cho các tên phố của Hà Nội xưa.
Bảng: Các làng nghề thủ công tiêu biểu của tiểu vùng Trung
tâm
Cho đến nay, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa,
hiện dại hóa đất nước, các làng nghề thủ công truyền thống của tiểu vùng đang
phát triển với tốc độ khá nhanh và có đóng góp ngày càng đnag kể vào kinh tế
của các địa phương cũng như góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Không chỉ
dừng lại ở việcphục vụ nhu cầu của người dân trong vùng, cho đến hiện nay,
sản phẩm của các làng nghề đã có mặt trên thị trường toàn quốc, thậm chí
nhiều sản phẩm đã được xuất khẩu và rất được yêu thích trên thị trường nước
ngoài. Đây là một hướng phát triển cần được khuyến khích trong thời gian tới
để phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn của tiẻu vùng.
Công nghiệp của tiểu vùng là một trong những thế mạnh đang
được phát huy trong thời gian gần đây. Với hai trung tâm công nghiệp lớn là
Hà Nội và Hải Phòng, tiểu vùng đã đóng góp quan trọng vào bức tranh công
nghiệp chung của toàn vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng đứng thứ hai cả nước về
sản lượng công nghiệp. Các ngành công nghiệp được tập trung phát triển trong
tiểu vùng là các ngành công nghiệp chế biến và các ngành có hàm lượng khoa
học kĩ thuật cao dựa trên cơ sở nguồn nhân lực đông đảo và có trình độ tương
đối cao như công nghiệp cơ khí chế tạo, điện – điện tử, công nghiệp hóa chất,
công nghiệp dệt may – da giày và công nghiệp chế biến lương thực – thực phẩm.
Trong quá trình tổ chức lại cơ cầu công nghiệp và thu hút
đàu tư nước ngoài, phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế, từ năm 1994,
vùng Đồng bằng Sông Hồng đã đầu tư phát triển các khu công nghiệp tập trung,
trong đó chủ yếu tại tiểu vùng trung tâm. Cho đến hiện nay, hầu như tất cả
các tỉnh đều có các khu công nghiệp tập trung đang được xây dựng hoặc đã đi
vào họat động.
Các hoạt động dịch vụ, du lịch cũng đang phát triển mạnh
mẽ trong thời gian gần đây. Với vị trí là trung tâm của đất nước trong suốt
chiều dài lịch sử và cho đến tận ngày nay, vời bề dày văn hóa hàng ngàn năm,
tiểu vùng trung tâm là nơi thu hút nhiều khách du lịch và đặc biệt phát triển
loại hình du lịch văn hóa. Hoạt động thương mại, thông tin liên lạc, bưu
chính viễn thông cũng tăng trưởng với tốc độ nhanh, đóng góp vào bức tranh
kinh tế đa dạng của vùng Đồng bằng Sông Hồng.
* Đặc điểm văn hóa
Người dân tiểu vùng trung tâm châu thổ, đặc biệt là những
người dân Thăng Long – Hà Nội vốn rất nổi tiíeng là thanh lịch về vốn văn hóa
tinh thần, về cách ăn mặc trang nhã, các món ăn chế biến tinh vi, khéo léo.
Người dân ăn mặc giản dị trong kiểu cách, nền nã trong màu sắc, tuy nhiên
không tự nhiên, xô bồ mà thể hiện sự chọn lựa của những người có trình độ
thẩm mỹ cao. Trong ăn uống, người dân ở đây rất sành ăn, tinh tế trong lựa
chọn và chế biến món ăn, khi ăn uống luôn giữ vẻ thanh lịch của người đang
thưởng thức cái ngon, vẻ đẹp chứ không ăn lấy đủ, lấy no. Ở trong tiểu vùng
có rất nhiều những món ăn ngon đã trở thành đặc sản cho các địa phương, vừa
là những món ăn truyền thống của dân tộc, vừa là sản phẩm tiếp thu và đồng hóa
các món ăn ảnh hưởng từ người Trung Quốc, người Châu Âu…
Đời sống tâm linh của người dân tiểu vùng rất phong phú,
thể hiện qua sự phát triển của các loại tín ngưỡng và tôn giáo, trước hết là
đạo Phật. Nói đến tiểu vùng trung tâm của Đồng bằng Sông Hồng là nói đến mảnh
đất của rất nhiều chùa chiền, với những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Trầm,
chùa Đa Sĩ, chùa Đại Bi, chùa Thầy, chùa Trăm Gian, chùa Tây Phương, chùa Phổ
Minh, chùa Keo… Các chùa ở đây được xây dựng trong sự hòa hợp với môi trường
tự nhiên, sơn thủy hữu tình, đáp ứng với quan niệm về thế giới quan và thẩm
mĩ truyền thống của nhân dân. Phật giáo đã đi vào đời sống của người dân địa
phương, hầu như làng nào cũng có chùa và những sinh hoạt lễ hội xung quanh
ngôi chùa.
Tiểu vùng trung tâm cũng là mảnh đất của rất nhiều danh
nhân. Điều đáng lưu ý là con người ở đây vừa là con người tứ xứ hội nhập lại
nhưng cũng có những nét độc đáo riêng. Những làng quê trong tiểu vùng luôn
nổi tiếng là “đất học”, “đất văn thơ”, “đất khoa bảng” với những nhân tài ở nhiều
lĩnh vực khác nhau: Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trường
Hán Siêu, Lương Thế Vinh, Nguyễn Hiền, Phạm Văn Nghị, Nguyễn Khuyến, Tú
Xương… Bên cạnh đó, với vị trí là thủ đô, là trung tâm của cả nước trong suốt
chiều dài lịch sử, mảnh đất này không chỉ là nơi thu hút nhân tài từ các vùng
khác mà còn là nơi đào luyện nhân tài, cho nên những danh nhân của địa phương
cũng chính là danh nhân của cả nước. Từ Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Du đến bà Chúa thơ môn Hồ Xuân Hương… là những người có gốc tích từ
mọi miền nhưng phải đến đây họ mới có điều kiện phát huy tài năng và tạo nên
những chiến công hiển hách, những tác phẩm kinh điển.
Gắn với các danh nhân là hệ thống các di tich lịch
sử văn hóa. Hà Nội, kinh thành Thăng Long xưa, kinh đô của rất nhiều triều
đại phong kiến Việt Nam, lại là thủ đô của đất nước hiện nay là nơi lưu giữ
nhiều di tích về bề dày lịch sử hiển hách và bề dày văn hóa vừa sâu sắc, vừa
đa dạng và phong phú của tiểu vùng.. Từ những dấu tích của kinh thành cổ xưa như
Cỏ Loa (Hà Nội) dưới thời An Dương Vương, thành Đại La – nơi đặt đô hộ phủ
của phong kiến xâm lược phương Bắc đến các di tích thuộc các đời Lý, Trần, Lê
sơ với những vết tích kiến trúc cung điện, thành lũy, thành bậc, các dấu tích
điêu khắc trên đá như chàu Bà Tấm, bệ đá chùa Bái, Chùa Đông, những thành bậc
ở điện Kính Thiên, bậc đàn Nam Giao, Văn Miếu, đặc biệt là khu di tích Hoàng
Thành Thăng Long. Khu vực nội thành cũng lưu giữ nhiều di tích văn hóa về
trung tâm văn hóa – chính trị - xã hội của cả nước trong suốt chiều dài lịch
sử: đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, chùa Trấn Quốc, đền Quán Thánh, chùa Quán
Sứ, đền Voi Phục, chùa Láng, chùa Kim Liên, tháp chùa Liên Phái, đền Đồng
Nhân… Khu vực các tỉnh lân cận Hà Nội cũng có rất nhiều di tích như Hoa Lư
(Ninh Bình) - kinh đô của cả nước vào thời nhà Đinh, đền Trần – dấu tích cũ
của phủ Thiên Trường, quê hương và là kinh đô thứ hai của nhà Trần, một trong
những triều đại huy hoàng nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam.
Gắn với các di tích lịch sử - văn hóa, các danh nhân của
tiểu vùng không thể không nhắc tới các lễ hội. Có thể nói tiểu vùng trung tâm
là mảnh đất của hội hè với hàng trăm lễ hội khác nhau, từ những lễ hội mang
tính chất lịch sử, tưởng nhớ đến các danh nhân như lễ hội Đền Trần (Nam Định
- gắn với di tích của Trần Hưng Đạo và các vua Trần), lễ hội đền Cổ Loa (Hà
Nội - gắn với truyền thuyết về An Dương Vương), lễ hội Hai Bà Trưng (đền Đồng
Nhân – Hà Nội), hội đền vua Đinh (Hoa lư – Ninh Bình tưởng nhớ đến hiến công
của vua Đinh Tiên Hoàng) đến những lễ hội mang tính chất tâm linh như lễ hội
Phủ Giầy (Vụ Bản – Nam Định), lễ hội chùa Thầy, … Với sự hình thành và phát
triển của rất nhiều làng nghề thủ công truyền thống, các lễ hội của các làng
nghề cũng tương đối nhiều
Các sinh hoạt văn hóa – nghệ thuật của tiều vùng cũng rất
phong phú. Trước hết phải kể tới là múa rối và múa rối nước. Múa rối nước đã
ra đời chừng hơn 10 thế kỷ trước ở vùng châu thổ sông Hồng. Loại hình này
thường diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết, dùng con rối diễn trò,
diễn kịch trên mặt nước. Nghệ thuật rối nước là đặc phẩm văn hoá bản địa dân
tộc Việt, phát triển ở hầu hết các làng xã quanh kinh thành Thăng Long như
Đào Thục, Đào Xá - Huyện Đông Anh, chùa Nành - Gia Lâm và nhiều phường rối ở
hầu hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Nói đến văn hóa – nghệ thuật của tiểu vùng trung tâm không
thể không nhắc đến chèo, loại hình tiêu biểu nhất của sân khẩu truyền thồng
Việt Nam.
Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, khoảng vào thế kỉ X,
sau được phổ biến rộng rãi ra toàn bộ vùng đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân
khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được
coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa
thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Đến
trước thế kỉ XX, trong phạm vi tiểu vùng đã hình thành nên 3 trong tổng số 4
“chiếng chèo” (vùng chèo) của cả Bắc Bộ gồm: Chiếng chèo Nam (Nam Định, Thái
Bình, Hà Nam, Ninh Bình); Chiếng chèo Đông (Hưng Yên, Hải Dương); Chiếng chèo
Đoài (gồm Hà Đông, Sơn Tây). Cho đến hiện nay, rất nhiều địa phương trong
tiểu vùng vẫn còn tồn tại những chiếu chèo hay làng chèo hoặc phát triển lên
thành các đoàn chèo của địa phương mình. Hát trống quân trong những ngày hội
là cách làm quen và ướm lòng nhau của các chàng trai, cô gái; hát xẩm, hình
thức hát rong cổ truyền của những người khiếm thị, rất phổ biến ở các bến đò,
chợ búa hay các nẻo đường. Rồi hát ru, một hình thức ca hát cô đúc cái tinh
túy, cái thần của nghệ thuật âm nhạc và thi ca. Đây là loại dân ca truyền
thống, góp phần hình thành nhân cách và giáo dục thẩm mỹ cho con người ngay
từ khi vừa lọt lòng.
Ngoài các hình thức dân ca phổ biến, mỗi địa phương trong
vùng còn có các hình thức dân ca riêng như hát dậm vùng Quyển Sơn, Kim Bảng,
Hà Nam.
Độc đáo hơn cả là hát chầu văn, đây là hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ
phủ, một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Các trung tâm
của hát văn là Nam Định và một số vùng quanh Hà Nội.
* Sự phân hóa của nội bộ tiểu vùng
Tiểu vùng trung tâm cũng ghi nhận sự phân hóa của csc yếu
tố tự nhiên, sản xuất cũng như văn hóa của người dân trong vùng. Nguyên nhân
của sự phân hóa này chính là sự khác nhau rất cơ bản của điều kiện địa hình
do sự hình thành của các ô trũng dưới tác động của quá trình đắp đê và trị thủy
của con người. Có thể chia phạm vi của tiểu vùng trung tâm thành 3 khu vực
khác nhau
- Khu vực Hà Nội và vùng phụ cận:
- Khu vực hữu ngạn sông Hồng là một vùng đất thấp trũng
kéo dài từ Thanh Oai qua Phru Lý tới Nam định, mằm kẹp giữa sông Đáy ở phía Tây
và sông Hồng ở phía đông và bao gồm hai ô trũng là ô trũng Hà Đông và ô trũng
Hà Nam Ninh. Đây là khu vực đồng bằng tích tụ sông biển với đặc điểm nổi bật
là hiện tượng úng trũng vào mùa mưa. Chính đặc điểm này đã ảnh hưởng rõ rệt
đến đời sống người dân trong vùng. Dân cư ở đây không phân bố đều trong khu
vực mà thường quy tụ trên những gờ đất cao tương đối chật hẹp, nhà nọ ken xít
nhà kia thành những xóm làng tương đối riêng biệt với lũy tre bao bọc. Các
làng nối với nhau bởi những con đường nhỏ còn về mùa mưa, do bị ngập úng nên
phương tiện di chuyển là những con thuyền nan. Để làm nhà, người ta phải đào
ao vượt thổ để nền nhà luôn cao hơn đường làng.
Nghề nông vẫn là nghề chính của người dân địa phương nhưng
do trước kia chỉ canh tác vào vụ chiêm nên còn được gọi là vùng chiêm trũng.
Thời kì úng lụt kéo dài suốt nhiều tháng là cản trở lớn với trồng cấy lương
thực nhưng lại là cơ hội cho việc khai thác các thủy sản vùng chiêm trũng.
Trong các mảnh vườn cũng chủ yếu trồng các cây có thể ngâm nước nhiều ngày
như bưởi, mít… Thời gian nông nhàn kéo dài hơn các khu vực khác cũng khiến
cho nhiều ngành nghề phụ xuất hiện và trở thành một bộ phận không thể thiếu
được trong nghề nghiệp của cư dân: nghề thủ công, buôn bán nhỏ… Hiện nay, do
sự phát triển của hệ thống thủy lợi, hầu hết các địa phương đã làm thêm vụ
mùa.
- Khu vực tả ngạn sông Hồng thuộc địa phận các tỉnh Hải
Dương, Hưng Yên và Thái Bình là một vùng đất đất trù phú ven sông Hồng và
sông Luộc. Hệ thống đê ở đây rất phát triển trên cơ sở các sống đất cao tự
nhiên do sông Hồng bồi đắp tạo nên những cảnh quan ngoài đê đặc sắc, những
khu vực đất bãi ven sông phì nhiêu nhưng ngập lũ và các đảo phù sa giữa sông.
Đây cũng là nơi sông Hồng chảy tương đối xiết nên nạn vỡ đê xảy ra khá thường
xuyên. Cũng dễ hiểu vì sao người dân ở đây lại có truyền thống đắp đê và giữ
đê. Bên cạnh đó là sự phát triển của nghề ương cá bột và nuôi cá nước ngọt do
có sông Hồng. Trên địa bàn cũng xuất hiện nhiều làng nổi, sống trên sông nước
với sinh kế chủ yếu là chài lưới. Các nông sản nổi tiếng ở đây có cả các hoa
màu là sản phẩm của các bãi bồi ngoài đê và các loại cây ăn quả phát triển ở
các sống đất cao tự nhiên.
2.3. Tiểu vùng duyên hải
* Ranh giới và điều kiện tự nhiên
Tiểu vùng duyên hải khu vực ven biển phía đông nam của vùng
Đồng bằng Sông Hồng, giáp với vịnh Bắc Bộ, bao gồm địa phận các huyện: Yên
Mô, Yên Khánh, Kim Sơn (Ninh Bình), Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy, Nam Trực,
Trực Ninh, Xuân Trường (Nam Định), Vũ Thư, TP Thái Bình, Kiến Xương, Tiền
Hải, Thái Thụy, Đông Hưng, Quỳnh Phụ (Thái Bình), Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến
Thụy, Đồ Sơn, Cát Bà, An Hải (Hải Phòng). Đây là phần châu thổ hiện đại
phần lớn chỉ cao dưới 1m so với mực nước biển, nơi thủy triều và nước mặn có
thể tràn ngập đất đai nếu không có đê ngăn chặn. Quá trình hình thành đồng
bằng trong khu vực vẫn đang tiếp diễn nhờ vào việc bồi tụ phù sa của sông
Hồng và các chi lưu chuyển ra biển.
Một đặc điểm tương đối nổi bật trong địa hình của tiểu
vùng là sự hình thành các cồn cát. Đây là những nơi tương đối khô ráo với độ
cao khoảng trên 1m, là địa bàn để cơ dân xây dựng các làng mạc. Giữa các cồn
cát là khu vực đất trũng thấp hơn dùng để canh tác nông nghiệp: cấy lúa,
trồng cói.
Về khí hậu, nhìn chung tiểu vùng duyên hải cũng mang những
đặc điểm chung của khí hậu toàn vùng là tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Nhưng
do vị trí ở gần biển nên độ ẩm được tăng cường khá nhiều. Vào mùa đông, nhiệt
độ của tiểu vùng ấm hơn so với hai tiểu vùng trên, tuy nhiên sự chênh lệch
nhiệt độ không nhiều (chỉ dưới 1oC) và lượng mưa cũng có sự gia tăng do ảnh
hưởng của biển. Vào mùa hè, ảnh hưởng của bão rất mạnh mẽ là có tác hại rất
lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân trong tiểu vùng.
Là khu vực cửa sông ven biển nên hệ thống sông cũng có ảnh
hưởng lớn đến cảnh quan của tiểu vùng duyên hải. Ở đây có sự khác biệt tương
đối rõ rệt giữa cửa song Thái Bình và cửa sông Hồng. Do dòng chảy của sông
Thái Bình yếu, lượng phù sa ít nên ảnh hưởng của biển tương đối mạnh, đường
bờ biển hầu như không bị quá trình trầm tích phù sa đẩy lùi nên tương đối ổn
định. Còn cửa sông Hồng, do dòng chảy mạnh, lượng phù sa lớn nên cửa sông
tiến nhanh ra biển. Trên cơ sở đó, người nông dan Đồng bằng Sông Hồng tích
cực quai đê lấn biển để khai phá vùng cửa sông. Hệ thống đê ở đây có chức
năng chống ngập mặn nhiều hơn là chống lũ. Tuy nhiên, so với các vùng ven
biển khác của cả nước, ảnh hưởng của thủy triều và biển ở vùng này yếu hơn so
với ảnh hưởn của sông, nước mặn vào không sâu, dòng chảy ngược kém.
Về nguồn tài nguyên đất, tiểu vùng có khoảng 90.000 ha đất
mặn, tập trung ở vùng cửa sông Hồng, từ Tiền Hải (Thái Bình) qua Giao Thủy,
Hải Hậu, Nghĩa Hưng (Nam Định) đến Kim Sơn (Ninh Bình). Ngoài ra còn có
khoảng 80.000 ha đất phèn tại vùng cửa sông Thái Bình, tập trung ở Hải Phòng
và một phần ở huyện Thái Thụy (Thái Bình).
* Đặc điểm dân cư và kinh tế
Đây là khu vực được khai phá muộn nhất trong cả vùng Đồng
bằng Sông Hồng. Từ thời nhà Trần, nhất là từ thời Lê, cư dân Đồng bằng Sông
Hồng bắt đầu có xu hướng chuyển dịch ra phía biển để khai phá mảnh đất đầy
tiềm năng này. Đặc biệt là những bãi triều như Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải
(Thái Bình) mới được khai phá cách đây khoảng 200 năm (vào những năm 1820),
nhờ sáng kiến của Nguyễn Công Trứ, một vị quan có tài trong việc chiêu mộ dân
nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp. Nhữg cư dân đến khai phá vùng đất nay chủ yếu
là từ trung du hoặc châu thổ trung tâm. Cũng có một bộ phận nhỏ là từ các
miền Bắc Trung Bộ (như Thanh Hóa) đi ra.
Do là vùng mới được khai thác nên tính chất cộng đồng cố
hữu của các làng xã trong tiểu vùng không sâu sắc và nặng nề như ở tiểu vùng
trung tâm và rìa đồng bằng. Ở các thôn, làng có lịch sử lâu đời, sự phân biệt
giữa dân gốc và dân ngụ cư là rất rõ rệt. Những người ngụ cư không được hưởng
quyền lợi, không được đối xử bình đẳng và hầu như không có vai trò gì trong
cộng đồng dân cư bản xứ. Còn ở khu vực duyên hải, trong hầu hết các làng xã
có nhiều dòng họ cư trú, có khi tới 15 – 20 họ. Các làng thường chia nhiều
phe giáp, mỗi giáp có phong tục tập quán riêng, thậm chí là tôn giáo riêng.
Do không có sự phân chia dân ngụ cư hay dân bản xứ nên mọi người dân, trong
một chừng mực nhất định, đều bình dẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Trải qua quá
trình lịch sử với những biến cố như quai đê lấn biển, chống thiên tai địch
họa, tinh thần dân chủ và hòa hợp ở các cộng đồng này thường cao hơn ở các
làng cổ.
Khu vực duyên hải cũng là khu vực có mật độ dân số cao
nhất của toàn vùng. Giải thích cho hiện tượng này có nhiều nguyên nhân, trong
đó đáng kể nhất phải nói đến tỉ lệ gia tăng tự nhiên của khu vực này là cao
hơn so với các khu vực khác (vì một bộ phận cư dân trong vùng là ngư dân,
những gia đình thường sinh rất nhiều con). Khi tốc độ khai hoang lấn biển
không theo kịp sự gia tăng dân số thì số dân quá tải đòi hỏi sự di cư. Truyền
thống di cư này bắt đàu từ những năm đầu thế kỉ XX và tiếp diễn cho đến hiện
nay. Trước đấy, lao động từ Đồng bằng Sông Hồng (điển hình là từ Thái Bình)
thường đi khắp cả nước để làm thợ mỏ (ở Miền núi trung phía Bắc), phu đồn
điền (ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ), hay đi xây dựng các vùng kinh tế mới
(trong thập kỉ 70 – 80). Còn hiện nay, theo điều tra của Tổng cục thống kê,
trong tổng số lao động di cư đến Tây Nguyên thì 19% xuất thân từ Đồng bằng
Sông Hồng. Tỉ lệ này ở Thành phố Hồ Chí Minh là 18% và các khu công nghiệp
Đông Nam Bộ là 17%. Cũng theo cuộc tổng điều tra Lao động và việc làm, năm
2004, số người di cư của vùng Đồng bằng Sông Hồng là 86.578 người, chiếm
22,7% tổng số người di cư của cả nước. Trong đó một bộ phận lớn người di cư
là từ khu vực ven biển.
Do đặc điểm về điều kiện tự nhiên mà phần lớn dân cư trong
vùng hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là chủ yếu. Buôn bán
trong khu vực kém phát triển và thủ công nghiệp cũng không đa dạng, số lượng
các làng nghề thủ công không nhiều. Với vị trí ở gần biển, những ngành ngư
nghiệp và diêm nghiệp trở thành sinh kế đáng kể của người dân nhưng các hoạt
động này không tách khỏi nghề nông. Lý giải cho hiện tượng này có thể thấy
đất đai trong vùng tương đối phì nhiêu, ngay cả với những vùng mới khai hoang
lấn biển. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nghề đánh cá và làm muối khiến cho sinh
kế của người dân trong vùng đa dạng hơn. Trong một số năm gần đây, sự phát
triển của ngư nghiệp, đặc biệt là việc nuôi trồng thủy sản giúp cho đời sống
cư dân nơi đây được cải thiện đang kể và vùng duyên hải tập trung dân cư khá
đông đúc. Mặc dù vậy nông nghiệp vẫn là sinh kế chính của người dân
* Đặc điểm văn hóa
Đặc điểm văn hóa nổi bật nhất của vùng chính là sự phân
trộn văn hóa do cư dân từ các khu vực khác dồn đến và gắn bó chặt chẽ với quá
trình khai hoang các vùng bãi triều. Trong đó độc đáo hơn cả là sự phát triển
rộng rãi của đạo Thiên chúa trong khu vực. Trong khi các tiểu vùng khác cúa
Đồng bằng Sông Hồng, Phật Giáo gần như chiếm vị trí độc tôn trong đời sống
tâm linh của người dân thì ở khu vực duyên hải có sự đan xen giữa Phật Giáo
và Công giáo. Tiểu vùng duyên hải là nơi đạo Thiên chúa du nhập từ rất sớm,
khoảng từ những năm đầu thế kỉ XVI đã có giáo sĩ vào Quần Anh (Hải Hậu – Nam Định hiện
nay) truyền đạo. Cuối thế kỉ XVII, nhà thờ Thiên chúa giáo đầu tiên được xây
dựng ở Ninh Cường và đến thế kỉ XVIII đạo Thiên chúa đã được lan truyền rộng
rãi. Trong tiểu vùng có những trung tâmcông giáo tiêu biểu cho cả nước như
giáo xứ Bùi Chu (huyện Xuân Trường – Nam Định) và giáo xứ Phát Diệm
(huyện Kim Sơn – Ninh Bình). Sự phát triển của tôn giáo này đã để lại cho
tiểu vùng nhiều di tích có giá trị cao như nhà thờ Phú Nhai (huyện Xuân
Trường – Nam Định) là nhà thờ thuộc loại cao và to nhất Việt Nam, nhà thờ
Phát Diệm (Kim Sơn – Ninh Bình) là nhà thờ có kiểu kiến trúc Việt Nam truyền
thống với mái cong như đình chùa.
Với ngành nghề khá đa dạng, một số địa phương trong phạm
vi tiểu vùng đã khá nổi tiếng với những sản phẩm đặc sắc của mình như các
làng chiếu cói ở Kim Sơn (Ninh Bình) hay làm muối…
Tiểu vùng văn hóa duyên hải có những đặc trưng về điều
kiện tư nhiên, về đời sống kinh tế - xã hội không hoàn toàn đồng nhất
mà có sự khác biệt giữa nơi này nơi khác trong các sắc thái văn hóa. Tuy
nhiên sự khác biệt này không sâu sắc như ở tiểu vùng trung tâm mà chỉ hình
thành nên các dạng văn hóa với những nét riêng là dạng văn hóa ở rẻo các cồn
cát và dạng văn hóa ở rẻo các bãi triều..
- Dạng văn hóa cồn cát nằm sâu trong nội địa, được khai
phá sớm hơn (vào khoảng thế kỉ XV). Các làng phân bố xít nhau và bám sát các
dải cồn cát. Các làng này có kết cấu nghề nghiệp dân cư và tổ chức cộng đồng
tương tự như tiểu vùng trung tâm với hoạt động nông nghiệp đa dạng và thủ
công nghiệp phát triển. Điểm nổi bật trong hoạt động nông nghiệp của tiểu
vùng là ngoài cây lúa còn có nhiều cây công nghiệp như bông, dâu tằm, mía,
đay, gai, thuốc lào…
Ở đây có nhiều đình chùa nhưng nói chung là không to, chủ
yếu là chắc chắn để đứng vững trước bão biển, trong đó tiêu biểu nhất là chùa
Cổ Lễ (Nam Trực – Nam
Định) và chùa Keo (Vũ Thư – Thái Bình).
Đời sông tinh thần được đánh dấu bởi nghệ thuật rối nước,
nghệ thuật chèo và múa dân gian. Tiểu vùng duyên hải có khá nhiều địa phương
nổi tiếng với cac loại hình nghệ thuật này, tiêu biểu là múa rối nước Làng
Nguyễn hay chiếng chèo Làng Khuốc (Đông Hưng – Thái Bình), múa đèn Mai Diêm
(Thái Thụy – Thái Bình).
Sinh hoạt lễ hội cũng khá sôi nổi trong khu vực cồn cát.
Nói chung làng nào cũng có lễ hội, gắn với sinh hoạt tín ngưỡng ở chùa, đình,
đền, trong đó có những lễ hội nổi tiếng như hội chùa Keo, chùa Cổ Lễ và cả
những lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp mà tiêu biểu là lễ hội Chọi
trâu (Đồ Sơn – hải Phòng).
- Dạng văn hóa bãi triều trẻ nhất, mới được khai phá trong
vòng trên dưới 100 năm và còn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Ở đây có dạng
quần cư kiểu bàn cờ, đường ngang ngõ dọc thẳng góc. Cách phân chia như vậy
tạo cho cho mỗi làng đều có điều kiện dẫn nước ngọtthau chua rửa mặn và sau
này lấn dần ra biển. các đường cắt ngang để phân chia các giáp cũng rất
thẳng, đường vào các ngõ xóm cũng cắt vuông góc, thành những ô bàn cờ đẹp
mắt. Các nhà cũng sóng nhau theo dãy, quay mặt hướng nam. Nhà thường làm
thấp, chắc, nhiều cột để chống bão
Khi làm ruộng, người dân vẫn lợi dụng thủy triều để dẫn
nước vào ruộng và tiêu nước ra sông biển. Thêm nghè đánh cá và làm muỗi. Nghề
thủ công không nhiều nhưng có một ngành đặc biệt phát triển là nghề làm chiếu
cói.
Nhìn chung kinh tế của khu vực bãi triều ít phát triển hơn
so với với các cồn cát nội địa bên trong. Đình chùa ít và nhỏ, miều đền phổ
biến hơn.
ThS Trần Thị Hồng Nhung
[1] Pierre Gourou trong “Người nông dân ở châu thổ Bắc Kì” đã
nói rằng “Đồng bằng sông Hồng chết trong tuổi thanh xuân của nó”
[2] Là hình thức dùng dao chặt cây phát nương để cây khô thì
đốt nương để lấy tro mùn
|