–
August 19, 2012Posted in: Viet Finance
19-8-2012 (VF) — Vai trò chủ yếu của chính phủ là bảo đảm một khuôn khổ luật pháp để tất cả các hoạt động kinh tế diễn ra.
Chúng
ta có thể chia hoạt động của chính phủ ra làm ba loại: a) sản xuất hàng
hóa và dịch vụ; điều tiết và trợ giúp các nhà sản xuất tư nhân; b)mua
hàng hóa dịch vụ, từ tên lửa cho đến hoạt động vệ sinh đường phố; c)
phân phối lại thu nhập, nghĩa là cấp tiền cho những nhóm người nhất định
nhằm giúp họ chi tiêu khá hơn là nếu không có sự trợ giúp đó; những
khoản chi này gọi là thanh toán chuyển giao (transfer payment), bao gồm
phúc lợi và bảo hiểm xã hội.
Ba loại hoạt động này – sản xuất, mua và phân phối lại – là cách tiện
lợi để phân loại các khoản chi tiêu và hoạt động rộng lớn của chính
phủ. Song nó lại không phù hợp với cách thức chính phủ tổ chức ngân sách
hay phân bổ trách nhiệm giữa các bộ của mình, như thương mại, dịch vụ y
tế, nội vụ, v.v. Hơn nữa, hầu hết các hoạt động của chính phủ do các
cấp bang và địa phương cũng như cấp bang thực hiện, cùng với tầm quan
trọng tương đối của các khoản chi tiêu đủ các loại của cấp bang, đều
được thay đổi theo thời gian.
Sự phức tạp cuối cùng là bản chất của một số khoản chi tiêu của chính
phủ không rõ ràng. Ví dụ, các khoản trợ cấp của chính phủ cho dù nông
trại quy mô nhỏ có thể coi là trợ cấp sản xuất hoặc trợ cấp mang tính
phân phối lại. Tiền hưu trí trả cho quân nhân, nghỉ hưu thường được coi
là thanh toán chuyển giao, nhưng nếu khoản này được xem là một phần chi
phí quốc phòng thì sẽ hợp lý hơn, cũng giống như việc trả tiền hưu trí
của một hang tư nhân được tính vào chi phí lao động.
Do đó, việc miêu tả mang tính định lượng những hoạt động của chính phủ là một việc vô cùng to lớn.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
–
August 19, 2012Posted in: Kiến thức, Kinh tế học
19-8-2012 — Một hoạt động quan trọng của chính phủ nhưng lại chiếm
phần chi phí rất nhỏ, là hình thành khuôn khổ luật pháp cho các hãng và
các cá nhân tham gia vào các hoạt động kinh tế.
Các
nhà kinh tế và các triết học thường cố tưởng tượng xem cuộc sống sẽ ra
sao nếu hoàn toàn không còn chính phủ nữa. Thiếu luật pháp quy định
quyền tài sản thì chỉ có thể dung sức mạnh mới làm cho người ta không ăn
cắp lẫn của nhau. Thiếu khả năng bảo vệ tài sản thì các cá nhân ít có
động cơ tích lũy tài sản. Và nhất định các hoạt động kinh tế sẽ bị hạn
chế rất nhiều.
Hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ làm được nhiều việc hơn là chỉ có bảo
vệ quyền tài sản. Nó làm cho hợp đồng giữa các cá nhân có hiệu lực. Nó
cũng đã áp đặt những hạn chế đối với các loại hợp đồng đã có hiệu lực về
mặt pháp lý. Luật phá sản của chúng ta hạn chế được vấn đề mắc nợ của
các nhà đầu tư. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm đã có tác động quan
trọng đến chất lượng sản phẩm . Luật chống độc quyền đã khuyến khích
cạnh tranh giữa các hãng với nhau: luật này hạn chế được việc sát nhập,
thôn tính và những thông lệ bất công khác trong kinh doanh.
Hiệu lực của hệ thống luật pháp của chúng ta rất sâu rộng, nhưng
những chi tiêu cho việc vận hành một hệ thống tòa án và duy trì kỷ
cương, trật tự lại khá nhỏ bé: nếu cộng cả chi phí cho cảnh sát và nhà
tù thì tổng chi tiêu chỉ cao hơn 4% một chút tổng số chi tiêu của chính
phủ là cho quản lý hành chính chung, các hoạt động lập pháp và hành pháp
(1).
–
(1) Năm 1985, năm cuối cùng của các con số so sánh về chi tiêu của
liên bang, bang , địa phương, chi tiêu đó như sau: cho hoạt động hành
chính lập pháp và tư pháp là 23 tỷ đô la; cho cảnh sát và các nhà tù là
39 tỷ đô la. Xem: Điều tra về kinh doanh hiện hành năm 7-1987.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
—
–
August 26, 2012Posted in: Kiến thức, Kinh tế học
26-8-2012 (VF) — Ngoài việc đảm bảo khuôn khổ luật pháp cho các cá
nhân và các hãng hoạt động, chính phủ ngày càng có vai trò tích cực
trong các quyết định sản xuất.
Chính phủ
chỉ tự sản xuất ra một khối lượng nhỏ hàng hóa và dịch vụ, song lại có
tác động lớn đối với các quyết định sản xuất thông qua sự điều tiết,
thông qua thuế và trợ cấp để có thể làm thay đổi hành vi của các hãng tư
nhân. Chính phủ có nhiều hoạt động đa dạng. Chính phủ có thể không thỏa
mãn với hành vi cụ thể của các hãng, chẳng hạn như làm ô nhiễm môi
trường. Có thể phải quan tâm đến sự độc quyền của một số hãng. Các nhóm
lợi ích cụ thể có thể thuyết phục quốc hội rằng họ xứng đáng được giúp
đỡ. Khu vực tư nhân có thể không cung cấp nổi một số hàng hóa và dịch vụ
nào đó được cho là rất quan trọng.
Sản xuất hàng hóa và dịch vụ
Một trong những điểm khác nhau chủ yếu giữa Hoa Kỳ và nhiều nước Tây
Âu là chính phủ Hoa Kỳ có vai trò hạn chế với danh nghĩa là người sản
xuất hàng hóa dịch vụ. Hiến pháp Hoa Kỳ giao cho chính phủ liên bang
trọng trách quản lý dịch vụ bưu điện và in tiền. Dịch vụ bưu điện của
Hoa Kỳ độc quyền trong việc cung cấp thư tín loại một, nhưng trên 50%
bưu kiện và thậm chí với tỷ lệ cao hơn nữa về thư tín tốc hành là do
hãng tư nhân đảm nhiệm.
Ở Hoa Kỳ, chính quyền địa phương có trách nhiệm chủ yếu đối với giáo
dục: gồm 90% học sinh cấp 1 và cấp 2, và 80% học sinh trung cấp, cao
đẳng được tuyển vào các trường công lập.
Nhiều hoạt động sản xuất của chính phủ cũng tương tự như chính các
hoạt động do hãng tư nhân thực hiện. Điện vừa do các doanh nghiệp của
chính phủ (mà nổi tiếng nhất vẫn là hãng Tennessee Valley Authority) vừa
do các hãng tư nhân cung cấp. Chính phủ cũng bán điện như các hãng tư
nhân vậy. Điểm khác nhau giữa các doanh nghiệp của chính phủ và các
doanh nghiệp tư nhân đôi khi không rõ ràng. Chính phủ có thể làm chủ
trên 50% của một hãng, nhưng lại cho nó hoạt động hoàn toàn như một hãng
tư nhân. Ở Hoa Kỳ, chính phủ đã thành lập một số doanh nghiệp. Đó là
Amtrak điều hành hệ thống đường sắt chở hành khách; là Comstat về sử
dụng hệ thống vệ tinh trong thương mại. Những hãng này cũng hoạt động
như những hãng tư nhân.
So sánh khu vực công cộng và tư nhân ở nhiều nước khác nhau, chúng
tôi thấy rằng một số ngành thường rơi vào khu vực công, còn các ngành
khác thì ít khi. Nông nghiệp là một ngành tỏ ra khó thuộc khu vực công.
Mặt khác, ở hầu hết các nước, ngành điện thoại, đường sắt, ít nhất một
phần của phát thanh và truyền hình thuộc khu vực công. Ở một số nước như
nước Anh, chính phủ sản xuất thép và than. Ở nhiều nước khác, hệ thống
ngân hàng do chính phủ làm chủ và vận hành; còn ở Hoa Kỳ, chính phủ điều
tiết sát sao, song do tư nhân làm chủ (1).
Quá trình chuyển các doanh nghiệp tư nhân thành các doanh nghiệp của
chính phủ gọi là quốc hữu hóa; quá trình chuyển doanh nghiệp chính phủ
thành doanh nghiệp tư nhân gọi là quá trình tư nhân hóa . Từ năm 1982
đến năm 1986, chính phủ Anh đã thực hiện làn sóng tư nhân hóa: chính phủ
đã chuyển các hãng điện thoại, khí đốt tự nhiên và dầu thành các hãng
tư nhân mới thành lập (trong đó, chính phủ nắm một số cổ phần). Năm
1986, nước Pháp bắt đầu việc bán, được coi là lớn nhất từ lúc trước đến
lúc đó, các xí nghiệp công cộng cho tư nhân, trong đó bao gồm nhiều xí
nghiệp được quốc hữu hóa (khi đảng xã hội cầm quyền) năm năm trước đó.
Sản xuất của chính phủ (giống như của mọi hãng) được đo bằng chênh
lệch giữa giá trị sản lượng và giá trị vật liệu mua vào, được gọi là giá
trị gia tăng. Nhưng giá trị sản lượng ở các hãng tư nhân được đo bằng
giá trị hàng hóa và dịch vụ thực hiện, còn hầu hết các hàng hóa do khu
vực công làm ra không được bán, mà sử dụng trực tiếp trong khu vực này
hoặc cho không. Do không có giá thị trường để đánh giá những mặt hàng
này, chúng phải đánh giá theo chi phí đầu vào để làm ra chúng . Như vậy,
khi giá trị gia tăng của doanh nghiệp tư nhân bằng tiền công , tiền trả
lãi và lợi nhuận, thì giá trị sản phẩm do chính phủ làm ra bằng tiền
công cộng với tiền lãi sẽ. Hãng nào quyết định trả cho công nhân của
mình cao hơn 5% tiền công (mà không tăng năng suất tương ứng) thì sẽ
thấy giá trị gia tăng của mình không thay đổi: tiền công sẽ tăng 5%,
nhưng tiền lãi sẽ giảm đi một khoản tương ứng. Nếu chính phủ cũng quyết
định trả tiền công cho công nhân của mình thêm 5%, nhưng giá trị đầu ra
được đo bằng giá trị đầu vào, nên khoản tăng tiền công sẽ là 5% tăng sản
lương.
Vì những vấn đề đó, nhiều nhà kinh tế cho rằng có thể có được bức
tranh khá hơn về quy mô của chính phủ với tư cách là người sản xuất bằng
cách nhìn vào việc sử dụng nhân công của chính phủ. Năm 1986, có 17
triệu người làm việc trong khu vực công cộng (kể cả lĩnh vực giáo dục và
quốc phòng) (2), chiếm 15,3% số việc làm . Con số này lớn gấp hai lần
so với năm 1930, nhưng từ năm 1980 giảm xuống chút ít. Việc mở rộng khu
vực công cộng đã diễn ra liên tục với nhịp độ liên tục cho đến năm 1970.
Con số này tăng lên nhanh chóng dưới chính quyền Hoover (1929 – 1933)
cũng như khi thi hành chính sách kinh tế xã hội mới dưới thời chính
quyền Roosevelt (1933 – 1945). Mặc dù nhịp độ có giảm xuống đôi chút
trong những năm tháng của Eisenhower, song quy mô của nó không hề giảm
cho đến chính quyền Nixon và Ford, và tiếp tục giảm dưới chính quyền
Carter và Reagan.
Trợ cấp sản xuất
Trong các ngành nghề mà chính phủ không phải là người sản xuất cũng
như người tiêu dùng, chính phủ vẫn có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến các
quyết định của các nhà sản xuất tư nhân. Sự ảnh hưởng này thông qua các
khoản trợ cấp và thuế (cả hai khoản này đều trực tiếp hoặc gián tiếp) và
thông qua các điều tiết.
Các chương trình nông nghiệp
ở Hoa Kỳ, những khoản trợ cấp trực tiếp quan trọng nhất là trợ cấp
dành cho nông nghiệp. Năm 1986 tăng lên 26 tỷ, so với 7 tỷ năm 1980. Hầu
hết khoản này chính phủ dùng để mua nông phẩm nhằm giữ giá nông phẩm ở
mức cao. Trong những năm 1980, trợ cấp cho nông nghiệp tiếp tục tăng.
Năm 1986, chi của chính phủ cho sản xuất ngô, mì và gạo đạt 57% giá trị
nông phẩm, so với 7% năm 1980.
Nhưng chi tiêu của chính phủ cho nông nghiệp chỉ là một phần trong
tổng chi phí của các chương trình nông nghiệp mà thôi. Hầu hết những chi
phí này đều phát sinh dưới dạng giá cao mà người tiêu dùng phải trả.
Khi đánh giá một chương trình nào đó của chính phủ, điều hữu hiệu là
phải phân biệt được hai loại chi phí. Thứ nhất là chi phí đối với xã hội
do việc không sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả. Ví dụ có những
người ở lại khu vực nông nghiệp vì có những khoản trợ cấp của chính phủ,
mặc dù họ có thể làm việc với năng suất cao hơn ở những nơi khác. Chi
phí thứ hai là sự chuyển giao một khoản phân phối lại thu nhập từ một
nhóm người này sang một nhóm người kia trong xã hội. Phần lớn các khoản
chi phí của chương trình nông nghiệp là khoản chuyển giao từ những người
ngoài ngành nông nghiệp cho nông dân.
Các chương trình nông nghiệp của chúng ta minh họa một nguyên lý
chung khác mà chúng ta sẽ quay lại sau: chính phủ có thể trợ cấp cho các
ngành công nghiệp và các cá nhân theo nhiều cách, và chỉ có một số
khoản trợ cấp (giá của trợ cấp) là chi tiêu của chính phủ mà thôi
Chi tiêu bằng thuế
Một số khoản trợ cấp quan trọng nhất của chính phủ được mở rộng thông
qua hệ thống thuế. Nếu chính phủ trao trợ cấp giáo dục cho sinh viên
thì những khoản này là chi tiêu; nhưng nếu như chính phủ miễn giảm thuế
cho chi phí giáo dục (tức là chính phủ cho phép ai đó giảm phần đóng
thuế bằng khoản chi phí cho giáo dục). thì khoản đó không phải là chi
tiêu của chính phủ. Chính phủ cũng có thể đánh thuế người đó rồi lại trợ
cấp cho anh ta; cả hai cách này đều tương đương. Song, trong thống kê
chúng lại là hai khoản hoàn toàn khác nhau.
Tương tự như vậy, nếu chính phủ trợ cấp cho nhà sản xuất để anh ta
mua máy móc, thì đó là khoản chi tiêu của chính phủ; nhưng nếu chính phủ
cho phép người đó giảm thuế đối với khoản tiền mua máy (tức là nếu anh
ta mua một cái máy 100 đôla và giảm 7% thuế, anh ta sẽ được hưởng 7%
tiền miễn thuế) thì khoản này không phải là chi tiêu của chính phủ.
Song, một lần nữa hai khoản này trên thực tế đều tương đương.
Chúng ta gọi những khoản trợ cấp ngầm này là chi bằng thuế. Chính phủ
liên bang phải dự tính những khoản thất thoát thu thuế gắn với mỗi
khoản chi bằng thuế này. Trong những năm qua, những khoản này rất lớn.
Để tính được giá trị của chúng , đầu tiên chúng ta phải tính xem mỗi cá
nhân hay mỗi hãng sẽ nộp bao nhiêu tiền thuế nếu không có những điều
khoản đặc biệt cho phép họ miễn hoặc giảm thuế đối với mỗi loại chi tiêu
khác nhau. Sau đó chúng ta tính phần chênh lệch giữa con số này và thuế
thực tế. Khoản chênh lệch này là khoản không thu được từ chi tiêu bằng
thuế. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến việc chính phủ đánh thuế cá nhân,
rồi sau đó lại trợ cấp cho người đó (để mua máy móc, để đi học, để mua
dịch vụ y tế, vv…)
Điều hành kinh doanh
Chính phủ điều hành hoạt động kinh doanh nhằm bảo vệ người lao động,
người tiêu dùng và môi trường, và ngăn ngừa những thực tế chống lại cạnh
tranh, ngăn ngừa sự phân biệt đối xử.
Cục bảo vệ sức khỏe và An toàn nghề nghiệp cố gắng đảm bảo để nơi làm
việc của công nhân được đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định. Cục Quan
hệ lao động quốc gia cố gắng đảm bảo để các nghiệp đoàn và bộ máy quản
lý đối xử với nhau một cách công bằng. Ủy ban thương mại liên bang,
ngoài những nhiệm vụ khác ra, đã cố gắng bảo vệ người tiêu dùng khỏi
những tiết mục quảng cáo không chính xác. Cơ quan bảo vệ môi trường đã
cố gắng bảo vệ những bộ phận quan trọng sống còn của môi trường, ví dụ
điều chỉnh việc thải khí độc của ô tô.
Ngoài những cơ quan này ra, còn có những quy định áp dụng đối với
những ngành cụ thể. Ngành ngân hàng thuộc phạm vi điều hành của cả Cục
dự trữ liên bang lẫn Cục giám sát tiền tệ. Buôn bán hàng hóa và đường xe
lửa chịu sự điều hành của Cục hàng không liên bang. Ngành bưu chính
viễn thông chịu sự điều hành của Ủy ban liên lạc liên bang. Ngành chứng
khoán chịu sự điều hành của Ủy ban chứng khoán hối đoái.
Trong những năm vừa qua đã có những nỗ lực được phối hợp nhằm giảm
mức độ điều hành của liên bang. Qúa trình giảm này còn được gọi là quá
trình giải quy chế (hay giảm điều tiết). Đã có sự giải quy chế trong
ngành hàng không (đó là việc bỏ Cục Hàng không dân dụng năm 1984), trong
ngành khí tự nhiên (giá khí đốt được phép tăng dần theo mức giá chung
của thị trường), trong ngành thương mại và ngân hàng (các dịch vụ mà
ngân hàng cung cấp bây giờ được phép tăng dần lên).
Những khoản chi tiêu cấp liên bang cho các cơ quan điều hành chỉ
chiếm dưới 1% ngân sách liên bang mà thôi. Nhưng những khoản chi đó
không cho được những cái nhìn đúng đắn về tác động của các cơ quan điều
hành này. Mức độ ảnh hưởng của các cơ quan này đối với mọi mật của hoạt
động kinh doanh vượt ra ngoài thước đo thông thường bằng chỉ tiêu của
chính phủ. Nhiều quy chế đã có những tác động tương tự như của các biện
pháp thuế và trợ cấp. Ví dụ như những quy định về thuế và trợ cấp. Ví dụ
những quy định về giá cả dịch vụ dân dụng có thể giảm giá cho một số
đối tượng xuống dưới mức giá thị trường, trong khi đó lại nâng giá một
số đối tượng khác.
Có thể có được một thước đo rất gián tiếp quy mô các quy định cấp
liên bang qua việc nhìn vào chi phí báo cáo gồm cả việc điền vào mẫu,
chi phí của hãng. Dưới chính quyền Carter đã có nỗ lực giảm chi phí bàn
giấy, và Ủy ban bàn giấy đã được thành lập cho mục tiêu này. Trong báo
cáo chi tiết của mình năm 1979, Ủy ban này đã dự tính khoảng 768 triệu
giờ của các nhân viên không thuộc cơ quan chính phủ làm công việc của
chính phủ. Số lượng thời gian này tương đương 400.000 công nhân làm việc
đủ giờ trong cả năm. Những nhân viên gián tiếp này bằng 14% nhân viên
trực tiếp cấp liên bang năm 1979.
Hoạt động của chính phủ trong thị trường tài chính
Hoạt động của chính phủ trong thị trường tài chính là đặc biệt sâu
rộng. Thị trường tài chính cung cấp một số dịch vụ rất quan trọng, đó là
phân bổ vốn; đảm bảo các thể chế để những khoản tiết kiệm của cá nhân
chuyển thành đầu tư thông qua các hãng. Thị trường chứng khoán tạo điều
kiện cho những người có đầu óc kinh doanh chuyển rủi ro kinh doanh cho
công chúng nói chung; còn các hãng bảo hiểm thì tạo điều kiện cho các cá
nhân thoát khỏi một số rủi ro mà họ gặp phải.
Chính phủ gây ảnh hưởng đối với khu vực tài chính thông qua rất nhiều
các cơ quan điều hành. Như chúng tôi đã nêu, Cục dự trữ liên bang và
Cục kiểm soát tiền tệ điều hành hệ thống ngân hàng, còn Ủy ban chứng
khoán và chứng khoán thì điều hành ngành chứng khoán. Những cơ quan tiết
kiệm và vay mượn thì do Cục ngân hàng cho vay nội địa liên bang điều
hành. Mỗi bang trong số 50 bang đều có Ban bảo hiểm để bảo quản lý ngành
bảo hiểm.
Ngoài những hoạt động điều hành này ra, chính phủ còn trợ cấp một số
hoạt động nhất định về cho vay của tư nhân, và thành lập cơ quan chính
phủ để thực hiện các hoạt động bảo hiểm và tín dụng.
Cung cấp tín dụng
Khi cấp tín dụng lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, trên thực tế
chính phủ đã trợ cấp cho tín dụng, với giả định rằng áp dụng tín dụng
lãi suất thị trường cao đối với một số nhóm người phản ánh sự đánh giá
của thị trường về rủi ro khi cho họ vay. Khoản trợ cấp thực tế chỉ được
ghi trong sổ sách của chính phủ khi và nếu người vay không trả được nợ.
Trong một số trường hợp, chính phủ không cấp tín dụng mà chỉ bảo lãnh
cho vay; việc đó cho phép người vay nhận được tiền vay với lãi suất
thấp hơn nhiều. Vì không có chi phí ngân sách vãng lai, những khoản đảm
bảo vay này là phương pháp trợ cấp ít khó khăn để trợ cấp cho một ngành.
Khi tập đoàn Chrysler đang trên bờ phá sản năm 1979, chính phủ đã
bảo lãnh cho công ty đó vay. Mặc dù cuối cùng Chrysler đã trả được nợ,
khoản bảo lãnh đó vẫn là một khoản trợ cấp lớn cho Chrysler trong ngân
sách. Vì Chryster đã thanh toán xong khoản nợ của mình, nên trợ cấp đó
không nằm trong chi tiêu của chính phủ. Thay vào đó, chi phí thực của nó
chỉ là phần giảm đi trong số các tín dụng cấp cho các hãng khác mà
thôi.
Phần lớn hoạt động cấp tín dụng của chính phủ tăng lên theo mức độ
thất bại của thị trường tư nhân trong việc cung cấp tín dụng trong điều
khoản thông thường. Chương trình cho vay của chính phủ (dù đó là các
khoản vay trực tiếp hay có bảo lãnh) luôn sẵn sàng để nông dân, chủ sở
hữu nhà, doanh nghiệp nhỏ, những nhà xuất khẩu, ngành dịch vụ công cộng,
các công ty đóng tàu và các chính phủ nước ngoài được vay.
Để định hướng vai trò của chính phủ liên bang trong việc tác động đến
việc luân chuyển vốn giữa người tiết kiệm và người vay, điều quan trọng
là phải so sánh số tiền cho vay dưới sự bảo trợ của chính quyền liên
bang với tổng lượng tiền cho vay của Hoa Kỳ. Lương tiền cho vay hàng năm
dưới sự bảo trợ của liên bang là phần chênh lệch giữa lượng tiền cho
vay trực tiếp và lượng tiền bảo lãnh ở cấp liên bang tại thời điểm đầu
năm và cuối năm. Năm 1986 khoản đó là 129 tỷ đô la. Cung tín dụng trong
nước là tổng số tiền cổ phần tăng lên của tất cả các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Năm 1986 khoản đó là 889 tỷ đô la. Tỷ lệ cho vay và trợ cấp liên bang là
14,5% năm 1986. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ cao điểm nhất 22,6% năm 1980.
Khi sử dụng những tỷ lệ này cần phải thận trọng, bởi vì nó không phân
biệt được giữa một đô la cho vay với, hoặc sát với, lãi suất thị trường
tư nhân, và các khoản vay cấp liên bang là khoản trợ cấp ngầm lớn .
Chính phủ liên bang mới chỉ bắt đầu đưa ra hệ thống hạch toán có biện
pháp tính được lượng trợ cấp ngầm thông qua tín dụng cấp liên bang.
Cung cấp bảo hiểm
Trong thời kỳ từ cuộc Đại khủng hoảng, chính phủ ngày càng có vai trò
to lớn hơn trong việc cung cấp bảo hiểm. Có hai nhóm bảo hiểm của chính
phủ.
Thứ nhất là bảo hiểm xã hội, bao gồm trợ cấp xã hội (cho người nghỉ
hưu và bảo hiểm sinh mạng), bảo hiểm y tế (cho người già), bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm cho những người mất khả năng lao động (trong trường
hợp bị tai nạn lao động). Bảo hiểm xã hội tăng tới 18% tổng chi tiêu
ngân sách của chính phủ và 28% chi tiêu ngân sách chính phủ liên bang.
Như chúng ta sẽ thấy sau này, cái gọi là chương trình bảo hiểm không hẳn
là chương trình bảo đảm lợi ích cho con người để giá trị thực mà họ sẽ
bằng với phần đóng của họ. Chương trình bảo hiểm cũng đảm bảo các
phương tiện để phân phối lại thu nhập cho một số nhóm dân cư có nhu cầu
đặc biệt. Vì lý do đó, chúng ta hay chia thành các chương trình chuyển
giao, tức là chương trình thuần túy để thu nhập cho các nhóm dân cư cụ
thể.
Loại chương trình bảo hiểm thứ hai của chính phủ tập trung vào rủi ro
kinh doanh. Mặc dù loại chương trình bảo hiểm này là tự lực, song trong
những năm vừa qua một số cơ quan quản lý chúng đã bị lỗ. Trong khi công
ty liên bang bảo hiểm tiền gửi (công ty này bảo hiểm tiền gửi trong các
ngân hàng thương mại) đã tích được 18 tỷ đô la dự trữ, thì các chương
trình khác đã sử dụng hết số dự trữ đó. Đây là trường hợp của các công
ty đảm bảo lợi ích hưu trí, công ty này bảo hiểm cho công nhân ở những
hãng tư nhân, có tham gia bảo hiểm, tránh được khả năng quỹ hưu trí của
họ không thể đáp ứng được nhiệm vụ chi trả. Điều này cũng đúng với công
ty bảo hiểm tiết kiệm và cho vay (khi tiền đóng bảo hiểm vượt các khoản
lỗ, số dư đó chuyển vào dự trữ; khi lỗ vượt thì chệnh lệch đó được lấy
ra từ dự trữ). Nhiều nhà kinh tế cho rằng khoản lỗ của các công ty này
rất lớn. Những chương trình bảo hiểm khác của liên bang do cơ quan quản
lý tình trạng khẩn cấp của liên bang phụ trách.
—
(1) Các ngân hàng dự trữ liên bang là sở hữu công cộng và chịu trách nhiệm về quản lý hệ thống ngân hàng .
(2) Đây là số lương nhân viên quy đổi làm việc cả ngày. Hai người làm việc nửa ngày tính bằng một người làm việc cả ngày.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
—
–
August 26, 2012Posted in: Kiến thức, Kinh tế học
26-8-2012 (VF) — Hàng năm, chính phủ mua hàng tỷ đôla hàng hóa và
dịch vụ để cung cấp cho quốc phòng, bảo dưỡng hệ thống đường cao tốc,
cấp cho giáo dục, bảo vệ trật tự, hỏa hoạn và công viên. Số lượng tiền
mua bằng hóa đơn chiếm một phần năm tổng sản lượng ở Hoa Kỳ.
Mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ giữa “người mua là chính phủ” và
“người sản xuất là chính phủ”, song hai chủ thể này vẫn khác biệt về
quan điểm cũng như thực tiễn. Phần nhiều những gì chính phủ mua vào là
do chính phủ làm ra. Song chính phủ cũng mua nhiều hàng hóa do tư nhân
sản xuất ra (kể cả nhiều loại vũ khí quân dụng). Vì chính phủ lại bán
một phần cái mà chính phủ làm ra (phần lớn là điện và dịch vụ đường sắt)
cho các hãng tư nhân và người tiêu dùng (4).
Cái mà chúng tôi đặc trưng cho những khoản mua của chính phủ là khoản
chi mua hàng hóa dịch vụ cho công chúng sử dụng tự do không phải trả
tiền, như quốc phòng, trường học công và đường cao tốc. Những khoản chi
của chính phủ cho người già thông qua chương trình chăm sóc sức khỏe để
cấp chi phí cho họ khi phải vào bệnh viện, hoặc cấp cho người nghèo
thông qua chương trình cấp tem phiếu lương thực, được phân vào thanh
toán chuyển giao chứ không phải các khoản mua hàng trưc tiếp. Do đó
chúng ta có thể thảo luận vấn đề này ở một phần riêng về phân phối thu
nhập của chính phủ.
Chi tiêu quốc phòng nghiêm cấm phần lớn những khoản mua này của chính
phủ, trong khi đó ở cấp bang và địa phương giáo dục chiếm phần đa số.
Khi chính phủ liên bang cấp kinh phí cho các khoản mua của địa phương và
bang thì những khoản này được quy vào đơn vị quản lý.
Tổng số tiền mua hàng và dịch vụ của chính phủ là khoản dưới 1.000
tỷ đô la trong năm 1985. Ở cấp liên bang những khoản mua này là cho
quốc phòng, bao gồm quân đội, hải quân, phát triển vũ khí. Có hai khoản
liên quan chặt chẽ đến quốc phòng: (1) các chi phí cho các chương trình
trợ cấp cựu binh mà có thể coi như sự trả công cho quá trình phục vụ
trước đây trong các lực lượng vũ trang; và (2) phần lớn các chương
trình nghiên cứu không gian và công nghê được xậy dựng nên được sự quan
tâm đến vấn đề phòng thủ . Nếu chúng ta gộp các vấn đề này lại với
nhau thì các chi tiêu cho quốc phòng và những vấn đề liên quan lên tới
ba phần tư số tiền mua của chính phủ liên bang .
Đối với các bang và các chính phủ địa phương, phần lớn nhất là giáo
dục, chiếm gần nửa số tổng số tiền mua hàng hóa và dịch vụ. Mặc dù các
chi tiêu chủa chính phủ liên bang đã tăng một cách đáng kể trong những
năm gần đây, chúng vẫn chiếm chỉ có 8% tổng số chi tiêu cho giáo dục của
chính phủ.
Khi xem xét sự chi tiêu tổng hợp ở mọi cấp của chính phủ, những chi
tiêu chủ yếu sau quốc phòng(32%) và giáo dục (22%) là y tế và bệnh
viện(7%) và giao thông vận tải (6%). Gần một nửa tổng số chi tiêu của
khu vực công cộng cho giao thông vận tải được chính phủ liên bang tài
trợ, nhưng các chính quyền bang và địa phương quản lí tới 86% các chi
phí.
Còn có những chi tiêu khác của chính phủ ở dạng chương trình nhằm
khuyến khích và điều hành thương mại, nhằm xây dựng nhà ở và các dự ắn
phát triển thành phố, và nhằm duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
–
August 26, 2012Posted in: Kiến thức, Kinh tế học
26-8-2012 (VF) — Chính phủ đóng một vai trò tích cực trong phân
phối lại thu nhập bằng cách lấy tiền của một số cá nhân và đưa cho những
người khác. Có hai nhóm chính thuộc các chương trình phân phối lại công
khai: các chương trình hỗ trợ công cộng nhằm trợ giúp cho những người
nghèo có đủ tiêu chuẩn, và bảo hiểm xã hội nhằm trợ giúp cho những người
về hưu, tàn tật, thất nghiệp và ốm đau. Chúng ta sẽ xem xét một số cách
mà chính phủ dùng để che đậy sự phân phối lại.
Như ta thấy ở trên, những chi tiêu dành cho dành cho các chương trình
phân phối lại công khai được gọi là các khoản thanh toán chuyển giao.
Những chi tiêu này là khác nhau tính chất so với các chi tiêu của chính
phủ cho những việc, ví dụ như làm đường hay mua sung. Các khoản thanh
toán chuyển giao chỉ đơn giản là sự thay đổi đối với những người có
quyền tiêu thụ hàng hóa. Ngược lại, phần chi tiêu của chính phủ cho
đường sá hoặc sung ống làm giảm đi một lượng những hàng hóa khác( hàng
hóa tiêu dùng cá nhân) mà xã hội có thể hưởng. Thanh toán xã hội cho các
thành viên trong xã hội, nhưng sự chuyển giao này không ảnh hưởng đến
tổng số hàng hóa được sử dụng ( bỏ qua ở đây sự phá vỡ những động lực do
chuyển giao này gây ra).
Các chương trình hỗ trợ công cộng
Các chương trình hỗ trợ công cộng ( giống như những chương trình bảo
hiểm xã hội) có hai dạng. Một dạng cung cấp tiền mặt, còn dạng kia thì
chi trả cho những dịch vụ hay hàng hóa đặc biệt. Dạng thứ hai là loại
trợ cấp hiện vật. Trong số các chương trình cấp tiền mặt, các chương
trình lớn nhất là: Trợ cấp cho các gia đình đông con sống phụ
thuộc(AFDC) và thu nhập đảm bảo bổ sung (SSI) nhằm cung cấp tiền mặt cho
những người nghèo bị tàn tật, mù hoặc già cả. Chương trình trợ giúp
công cộng bằng hiện vật lớn nhất là trợ cấp y tế nhằm trợ giúp cho các
chi tiêu về y tế của người nghèo. Trong năm 1986, trợ giúp y tế chiếm
44% trong tổng số tiền hỗ trợ công cộng, bằng 45 tỷ đôla.
Các chương trình bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội khác với hỗ trợ công cộng ở chỗ, mỗi cá nhân phụ
thuộc một phần vào các đóng góp của người đó mà nó có thể được coi như
là tiền đóng bảo hiểm. Theo chừng mực mà mỗi người sẽ nhận được một
khoản đóng góp của người ấy, bảo hiểm xã hội được xem như là “hoạt động
sản xuất” của chính phủ, chứ không phải là hoạt động phân phối lại.
Nhưng do phần nhận được thường lớn hơn rất nhiều so với phần họ phải
đóng góp nên một phần lớn tái phân phối là dựa vào các chương trình bảo
hiểm xã hội của chính phủ.
Chương trình lớn nhất trong các chương trình đó là chương trình bảo
hiểm cho người già, bảo hiểm sinh mạng và người không có khả năng lao
động .
Các chương trình bảo trợ xã hội và chăm sóc y tế đôi khi được hiểu là
các chương trình cho tầng lớp trung lưu, bởi vì, những người được hưởng
chủ yếu là tầng lớp trung lưu, và trợ cấp không dựa trên cơ sở nhu cầu
mà để họ thỏa mãn những tiêu chuẩn khác (ví dụ tiêu chuẩn tuổi). Chừng
nào họ thỏa mãn những tiêu chuẩn này thì họ được nhận trợ cấp.
Các chương trình phân phối lại ngầm
Chính phủ có ảnh hưởng đến phân phối thu nhập không chỉ thông qua các
khoản trợ cấp trực tiếp, mà còn thông qua những ảnh hưởng gián tiếp của
hệ thống thuế và các chương trình khác của chính phủ. Có thể tưởng
tượng là chính phủ đánh thuế mọi người với mức thuế như nhau, nhưng sau
đó trợ cấp cho những người có thu nhập thấp hơn một mức nhất định. Điều
này có ảnh hưởng tương tự như đánh thuế những người có thu nhập thấp hơn
với thuế suất thấp hơn. Do đó, có sự tùy tiện nhất định trong việc phân
định giữa trợ cấp xã hội thông qua các chương trình chi tiêu và những
khoản trợ cấp ngầm thông qua hệ thống thuế (1).
Chính phủ còn phân phối lại thu nhập dưới hình thức chương trình trợ
cấp và hạn ngạch. Chương trình nông nghiệp trên thực tế là phân phối lại
thu nhập cho nông dân. Hạn ngạch nhập khẩu dầu lửa những năm 1950 đã
phân phối lại thu nhập cho các chủ dự trữ dầu . Lý do để đưa ra hạn
ngạch này là để đảm bảo sự độc lập về năng lượng của Hoa Kỳ; mặc dầu
vậy, tác động mang tính chất phân phối lại là nằm trong những hậu quả
chủ yếu, và chúng thực sự có thể là động cơ để có hệ thống pháp luật.
Chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ cũng có hậu quả mang tính phân phối
lại: trợ cấp cho giao thông xe buýt trong thành phố có thể giúp người
nghèo, đồng thời trợ cấp cho đường xe lửa ngoại thành có thể lại giúp
cho giới trung lưu. Như chúng ta sẽ thấy trong những chương tới, việc
đánh giá chi tiêu của chính phủ là vấn đề vô cùng phức tạp.
—
(1) Một phần chi tiêu thuế được xem như dưới dạng bảo hiểm xã hội.
Việc bảo hiểm thất nghiệp và bảo trợ xã hội chỉ bị đánh thuế một phần và
lợi ích đối với người mất khả năng lao động không bị đánh thuế, có
nghĩa là 1 đô la chi tiêu trực tiếp cho mục tiêu này phải tăng them nếu
như nó bị đánh thuế.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
–
August 26, 2012Posted in: Kiến thức, Kinh tế học
26-8-2012 (VF) — Bây giờ chúng ta sẽ xem xét một cách tổng quát
tổng chi tiêu của chính phủ thông qua các khoản trợ cấp cho những nhà
sản xuất của chính phủ, qua mua hàng hóa, dịch vụ và trợ cấp cho các cá
nhân. Mua hàng hóa dịch vụ chủ yếu cho quốc phòng và giáo dục, chiếm
trên một nửa tổng chi tiêu của khu vực công cộng trong năm 1986. Một
phần tư khác là các khoản thanh toán chuyển giao.
Thanh toán chuyển giao là khoản quan trọng trong ngân sách liên bang
so với chi tiêu của khu vực công cộng. Năm 1986, thanh toán chuyển giao
chiếm 37% tổng chi tiêu liên bang. Số còn lại trong chi tiêu của liên
bang được chia ra giữa quốc phòng (32%), lãi suất (13%), viện trợ (8%)
và các khoản khác (11%, bằng 114 tỷ đô la). Thâm hụt ngân sách liên bang
năm 1986 là 203 tỷ đô la lớn hơn loại chỉ tiêu cuối cùng này. Do đó,
cân đối ngân sách mà không giảm các khoản chuyển giao, giảm chi quốc
phòng hay tăng thuế, là việc không thẻ làm được.
Trách nhiệm liên bang so với trách nhiệm cấp bang và địa phương
Trong chương 1 chúng ta đã thấy là chính phủ Hoa Kì có cơ cấu liên
bang: chính phủ liên bang chịu trách nhiệm chủ yếu về cung cấp một số
hàng hóa và dịch vụ nhất định, trong đó các chính phủ bang và địa phương
cung cấp những hàng hóa khác. Ngày nay, chính phủ liên bang chi toàn bộ
cho quốc phòng, 98% bảo hiểm xã hội, ba phần tư hỗ trợ công cộng, nhưng
chỉ chi dưới 1/12 cho giáo dục công cộng. Ngân sách liên bang gần bằng
hai lần tổng ngân sách của các chính phủ bang và chính quyền địa phương.
Mối quan hệ giữa chính phủ liên bang và các bang, các địa phương là
rất phước tạp. Chính phủ liên bang trao trực tiếp các khoản trợ cấp
(hiện nay hầu hết đều giới hạn vào các chương trình đặc biệt) và giao
cho các địa phương và bang quản lí các chương trình của liên bang. Nhưng
khoản chi tiêu này có thể được báo cáo vừa là chi tiêu của “liên bang”
vừa là chi tiêu của “bang và địa phương” .
Trong những năm vừa qua đã có những thay đổi rõ nét về tầm quan trọng
tương đối của các cấp chính phủ này. Khi xem xét những thay đổi này
phải ghi nhận rằng, phần của liên bang dành cho chi tiêu không phải là
quốc phòng đã tăng từ dưới một phần năm năm 1902 lên trên một nửa năm
1986.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
—
–
August 26, 2012Posted in: Kiến thức, Kinh tế học
26-8-2012 (VF) — Bởi vì sự ảnh hưởng của chính phủ đối với kinh tế
tư nhân phụ thuộc vào các chính sách điều hành và thuế khóa cũng như các
khoản chi tiêu của nó, cho nên không một con số đơn độc nào có thể đưa
ra một chỉ số chính xác về tác động của chính phủ đối với nền kinh tế
của Hoa Kì.
Mặc dầu vậy, một con số mà các
nhà kinh tế thấy rất tiện dụng là mức độ chi tiêu công cộng so với quy
mô của toàn bộ nền kinh tế. Thước đo chuẩn về quy mô toàn nền kinh tế là
tổng sản phẩm quốc dân(GNP), dùng để đo giá trị toàn bộ hàng hóa, dịch
vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế trong một năm.
Gia tăng chi tiêu và thay đổi thành phần chi tiêu
Trong vòng 50 năm qua, tỷ trọng chi tiêu công cộng trong GNP đã tăng lên rất nhanh. Năm 1930 là 11% của GNP. Hiện nay là 35%.
Chi tiêu cho quốc phòng
Từ năm 1960 đến năm 1977, tỷ lệ chi cho quốc phòng đã giảm trong GNP
(từ 9% xuống còn 5%) cũng như trong chi tiêu của chính phủ. Nhưng kể từ
thới kì đó lại có xu hướng ngược lại: Năm 1986 chi tiêu cho quốc phòng
trong GNP vẫn không đạt mức của năm 1960. Trên thực tế, trong thới gian
từ 1960 đến 1977, chi tiêu thực tế tăng với tốc độ chậm hơn tỷ lệ lạm
phát.
Nhằm tránh những ấn tượng sai có thể do không tính đến lạm phát một
cách hợp lí, các nhà kinh tế muốn thể hiện những chi phí này bằng “ đôla
cố định”. Do đó, nếu năm ngoái chính phủ chi một tỷ đôla cho một chương
trình nào đó, và năm nay chi 1,1 tỷ, nhưng lại tăng lên 10%, thì chúng
ta nói rằng chi tiêu hiện hành (đo bằng giá năm ngoái) vẫn là 1 tỷ; vì
theo đô la cố định thì chi tiêu không hề tăng. Do đó, theo đôla cố định
của năm 1982 thì chi quốc phòng đã co lại từ mức trung bình là 175 tỷ
năm 1970- 1974 xuống 156 tỷ năm 1980, nhưng lại tăng lên 227 tỷ năm
1985. Dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Mức gia tăng 45% này của
chi tiêu thực tế cho quốc phòng trong năm năm không gây ra tranh cãi
lớn, là điều không có gì đáng ngạc nhiên.
Thanh toán chuyền giao và trả lãi
Gia tăng chi tiêu cho bảo trợ xã hội, cho các chương trình hưu trí,
chăm sóc y tế và trả lãi chiếm phần lớn số tăng trong chi tiêu công cộng
kể từ năm 1950. Mặc dầu hỗ trợ công cộng thường bị coi là nguồn gốc
tăng chi tiêu công cộng, tỷ trọng của nó trong tổng chi tiêu của chính
phủ chỉ tăng có từ 4- 6%.
Giải thích các số liệu
Có nhiều quan điểm phổ biến về sự thay đổi của mức chi tiêu và cách
thức chi tiêu của khu vực công cộng trong một phần tư thể kỉ qua, và về
những số liệu mà chúng ta đã và đang bàn đến.
Các số liệu không cho thấy mức tăng lớn về chi tiêu vào cuối những
năm 1960, như người ta thường vẫn nghĩ là do cuộc chiến chống nghèo khổ
gây ra. Chúng cũng không cho thấy chi tiêu giảm vào đầu những năm 1980,
mặc dù những nỗ lực của Reagan nhằm giảm quy mô của chính phủ. Thời kì
tăng nhanh chi phí quốc phòng bắt đầu từ trước năm 1960, mức tăng
không chỉ dưới chính quyền Jonhson (1963-1969) mà còn qua cả thời Nixon
(1969-1974). Chỉ đến dưới chính quyền Carter mới có sự giảm rõ ràng
nhất.
Tuy nhiên, những số liệu này có thể không chính xác. Chi tiêu của một
năm có thể là do các chương trình đã triển khai từ trước đó. Chương
trình chăm sóc y tế áp dụng năm 1965, nhưng toàn bộ chi phí của chúng
chưa được thực hiện cho mãi tới sau này. Mức chi tiêu cao hiện nay cho
bảo trợ xã hội là hậu quả thay đổi trong những năm 1970. Việc tăng cường
chi tiêu hiện nay cho quân sự sẽ có ảnh hưởng đến ngân sách nhiều năm
sau này, khi các đơn đặt hàng hiện nay được giao nhận.
So sánh chi tiêu giữa các nước
Chi tiêu của Hoa Kỳ tỏ ra nhỏ hơn nhiều chi tiêu của các nước Tây Âu
khác, tỷ lệ gia tăng chi tiêu của Hoa Kỳ cũng nhỏ hơn nhiều so với các
nước công nghiệp khác. Sự chênh lệch còn lớn hơn nữa nếu chúng ta tính
đến chênh lệch trong thu nhập quốc dân.
Ở các nước thu nhập đầu người cao hơn có xu hướng khu vực công cộng
khá lớn. So với những nước công nghiệp hóa khác có thu nhập đầu người
tương tự thì tỷ lệ chi tiêu của khu vực công cộng Hoa Kỳ đóng vai trò
lớn hơn, cho nên tỷ trọng chi phí phi quốc phòng đặc biệt thấp, nếu xét
từ góc độ triển vọng quốc tế.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
—
–
August 28, 2012Posted in: Kiến thức, Kinh tế học
28-8-2012 (VF) — Bây giờ chúng ta xem xét xem chính phủ chi tiền
vào đâu, chúng ta sẽ nghiên cứu một cách ngắn gọn những cách huy động
nguồn thu của chính phủ để phục vụ chi tiêu này. Chính phủ áp dụng nhiều
loại thuế khác nhau. Khi thu của chính phủ từ nguồn thuế ít hơn chi
tiêu theo kế hoạch của mình, chính phủ phải hoặc là cắt giảm chi tiêu
hoặc là vay them phần thiếu đó.
Thuế và hiến pháp
Vấn đề thuế là vấn đề mà các nhà sáng lập ra nước cộng hòa phải tư
duy nhiều nhất. Thực vậy, cuộc cách mạng đã bắt đầu bằng cuộc nổi loạn
chống thuế của Đảng Chè ở Boston Tea Party). Đó là cuộc cách mạng chống
thuế chè với khẩu hiệu “đánh thuế mà không có ai đại diện là một hành
động chuyên chế”. Điều đầu tiên trong hiến pháp đã quy định rằng “Quốc
hội phải có quyền định ra thuế và thu thuế, thuế hải quan, thuế nhập
khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt, để trả nợ và chi tiền cho quốc phòng và
phục vụ lợi ích chung của Hoa Kỳ”.
Ba loại hạn chế đã được áp đặt: Chính phủ không được đánh thuế xuất
khẩu; “toàn bộ thuế, nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt” phải được áp
dụng thống nhất trên toàn nước Hoa Kỳ; “không một loại thuế cá nhân hay
trực tiếp nào được phép áp dụng chừng nào chưa có thông nhất hay chỉ đạo
trực tiếp”. Dụng ý của những điều khoản này là bảo đảm để không một
nhóm bang nào lợi dụng được bang khác. Hạn chế đối với thuế xuất khẩu đã
được ban hành, bởi vì những bang ở phía nam lo lắng rằng các bang ở
phía bắc đánh thuế xuất khẩu bông mà gánh nặng của nó (mặc dù đã áp dụng
thống nhất) sẽ giáng vào những nhà sản xuất phía nam. Tương tự , những
bang giàu có lo lắng rằng những bang nghèo buộc họ phải trả phần bất
cân đối – theo họ hiểu – của thuế, và do đó chỉ có thuế trực tiếp đã
được phép áp dụng là thuế than thống nhất.
Những người soạn thảo hiến pháp đã dự đoán đúng rằng, những vấn đề
đánh thuế phân biệt của một số bang có thể chia rẽ liên bang, nhưng họ
lại không dự đoán được một cách đầy đủ những công cụ ảnh hưởng đến sự
phân biệt này. Thuế quan nhập khẩu không chỉ làm tăng thu, mà còn tăng
giá mà nhà sản xuất trong nước phải trả. Vấn đề thuế quan đối với hàng
hóa sản xuất ra ở phía bắc là một trong những vấn đề chia rẽ nhất trong
thời kỳ trước Nội chiến, mà trên thực tế là khoản trợ cấp ròng của phía
Nam trợ cấp cho phía Bắc.
Mặc dù những vấn đề này có thể không đến nỗi chia rẽ lắm, nhưng vẫn
có mâu thuẫn. Năm 1980, chính phủ liên bang đánh thuế tiêu thụ đặc biệt
đối với dầu lửa, và do quyết định đó đã làm cho giá dầu lửa tăng. Thuế
lợi nhuận trời cho, gọi như vậy vì thuế đó sẽ dành cho chính phủ phần
nào đó lợi ích ngẫu nhiên mà các nhà sản xuất nhận được do giá cả tăng,
không áp dụng đối với giàu lửa ở phía bắc Alaska. Bang Texas và các bang
sản xuất dầu lửa lớn khác nhìn nhận thuế đó như là một biện pháp phân
biệt đối xử, vi phạm tính thống nhất của hiến pháp. Tòa án cấp quận của
Hoa Kỳ đồng tình với họ, song khi kháng cáo, Tòa án tối cao năm 1983 ra
lệnh là sự phân biệt tùy tiện, do đó Quốc hội không hề vi phạm điều
khoản thống nhất của Hiến pháp.
Tuy nhiên, điều khoản của Hiến pháp hạn chế thuế trực tiếp đã tỏ ra
có vấn đề. Quốc hội đánh thuế trong thời kỳ nội chiến và ban hành lại
vào năm 1894 dưới dạng thuế đánh vào thu nhập rất cao. Song năm 1895,
Tòa án cứ khăng khăng cho rằng thuế thu nhập cá nhân một phần là thuế
trực tiếp mà theo quy định của hiến pháp phải cân đối giữa các bang xét
theo góc độ dân số của chúng. Sự phê phán lan truyền rộng rãi đó đã dẫn
đến phải sửa đổi hiến pháp. Hiến pháp sửa đổi lần thứ 16, được thực hiên
năm 1913, tuyên bố rằng “Quốc hội có quyền đánh thuế và thu nhập thuế
thu nhập từ mọi nguồn mà không có sự cân xứng giữa các bang và không cần
phải điều tra hay kê khai”.
Tuy nhiên điều khoản cân xứng vẫn hạn chế Quốc hội áp dụng một số
thuế . Một số nước đã áp dụng thuế tài sản quốc gia và thuế người giàu
có. Nhưng những thuế này có thể coi là thuế trực thu và do đó bị loại ở
Hoa Kỳ bởi điều khoản cân xứng.
Thuế ở cấp bang hiện nay
Vừa qua chính phủ liên bang đã đưa ra năm dạng thuế chủ yếu: 1) thuế
thu nhập các nhân; 2) thuế quỹ lương; 3) thuế thu nhập công ty; 4) thuế
tiêu thụ đặc biệt (thuế đánh vào những hàng hóa đặc biệt như xăng dầu,
thuốc lá, vé máy bay và rượu); 5) thuế quan nhập khẩu (thuế đánh vào một
số hàng nhập). Thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu thuế lớn duy nhất
trong số nguồn thu bằng thuế của chính phủ. Năm 1986, thuế bảo trợ xã
hội chiếm 36%, thuế thu nhập công ty chiếm 6% thu nhập của chính phủ.
Đã có sự thay đổi lớn trong cơ cấu chi tiêu trong năm mươi năm qua,
cũng như sự thay đổi rõ nét trong nguồn thu của chính phủ. Trừ giai đoạn
ngắn của Nội chiến và năm 1894, chính phủ liên bang đã không áp dụng
một loại thuế thu nhập nào đối với các cá nhân trước năm 1913. Thuế thu
nhập cá nhân trước năm 1940 chiếm 25% hoặc ít hơn tổng thu từ thuế của
chính phủ. Khi đó thuế tăng gấp bốn lần nhằm tăng thu cho thế chiến thứ
hai. Vì lý do chiến tranh, thuế thu nhập cá nhân đã trả thành nguồn thu
liên bang. Thuế thu nhập công ty ngày càng giảm , giảm từ 36% tổng thu
của liên bang năm 1927 xuống 23% năm 1960 và 8% năm 1986.
Thu của cấp bang và địa phương
Khác với hệ thống thuế liên bang , hệ thống thuế cấp bang và địa
phương dựa chủ yếu vào thuế doanh thu và thuế tài sản . Thuế tài sản là
nguồn thu chủ yếu của cấp này cho đến năm 1976. Ngày nay thuế doanh thu
chiếm 23% tổng thu và thuế tài sản chiếm 19%. Thuế thu nhập bang và địa
phương tăng 12% trong tổng số, trong khi đó thuế thu nhập công ty chỉ
tăng có 3%.
Sự cạnh tranh giữa các bang không khuyến khích sử dụng nhiều loại
thuế ở cấp bang và địa phương, đặc biệt là thuế thu nhập công ty. Để đáp
ứng nhu cầu của các dịch vụ của bang và địa phương , chính phủ liên
bang đã bảo đảm viện trợ ngày càng tăng cho chính phủ bang và chính
quyền địa phương. Phần nhiều viện trợ đó cung cấp trực tiếp qua chương
trình cụ thể như xây dựng đường sá, giáo dục song ngữ, dạy nghề và thư
viện. Vào cuối những năm 1960 và 1970, chính phủ liên bang đã cấp vốn
khá lớn theo chương trình gọi là phân chia thu nhập chung. Năm 1986,
liên bang đã cấp cho chính quyền bang và địa phương một phần sáu tổng
nguồn thu của họ.
So sánh thuế giữa các nước
Cách đánh thuế ở các nước rất khác nhau. Ở các nước châu Âu, thuế thu
nhập cá nhân ít quan trọng (chỉ chiếm dưới 30% thu nhập ở Anh và Đức,
13% ở Pháp).; nhưng thuế hàng hóa và dịch vụ lại quan trọng hơn. Đối với
hầu hết các nước, thuế giá trị gia tăng (thuế đánh vào giá trị sản phẩm
của hãng trừ đi giá trị hàng hóa và dịch vụ mà hãng mua về) là nguồn
thu chủ yếu, và trong nhiều trường hợp nó chiếm tới một phần sáu nguồn
thu của chính phủ . Thuế bảo trợ xã hội cũng chiếm một phần nào đó trong
thu của chính phủ Nhật Bản, và ở mức trung bình của Châu Âu cũng như
Hoa Kỳ.
—-
* Joseph E. Stiglitz (Người dịch: Nguyễn Thị Hiên và những người khác), 1995,
Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và Kỹ thuật
—