TS. Ngô Tự Lập
Khoa Quốc tế, ĐHQGHN
Chúng ta
muốn nuôi dạy con mình thế nào hay là ba mục đích của giáo dục
Muốn có một nền
giáo dục tốt thì phải có một triết lý giáo dục đúng đắn. Điều này không phải
bàn cãi. Tầm quan trọng của triết lý giáo dục đã được nhiều tác giả, trong đó
có tôi, bàn đến trong nhiều dịp khác nhau. Nhà văn Nguyên Ngọc, chẳng hạn, viết
trong bài "Triết lý giáo dục: Đã đúng đắn chưa?":
"Triết lý giáo dục chi phối, chỉ đạo toàn bộ các khâu, các lĩnh vực cụ thể
của giáo dục, từ nội dung giáo dục, phương châm giáo dục, phương pháp giáo dục,
tổ chức giáo dục, ảnh hưởng quyết định đến tất cả các cấp của nền giáo dục, từ
tiểu học, trung học, cho đến Đại học, trên Đại học. Kiểu triết lý giáo dục nào
đưa đến kiểu nội dung, phương châm, phương pháp, tổ chức giáo dục đó" 1
Chắc chắn Bộ giáo
dục và đào tạo cũng ý thức được tầm quan trọng của triết lý giáo dục - bằng
chứng là những cuộc hội thảo về triết lý giáo dục được tổ chức gần đây.
Dự thảo lần thứ 14 "Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam
2009-2020" của Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố ngày 30-12-2008
cũng khẳng định: "Phát triển sự nghiệp giáo dục cần dựa trên một hệ
thống triết lý" 2.Tuy nhiên, cách hiểu về
triết lý giáo dục có nhiều khác biệt ở các tác giả khác nhau. Dự thảo nói trên
định nghĩa "hệ thống triết lý" giáo dục là "hệ thống quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cần được vận dụng một cách sáng tạo phù hợp thực
tiễn giai đoạn mới". Với quan niệm như vậy, nhóm soạn thảo không tiếp cận
vấn đề từ nền tảng triết học, mà thiên về mô tả những chính sách cụ thể:
1.
Giáo dục và đào
tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây
dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời
tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
2.
Phát triển nền
giáo dục của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng đầu;
3.
Giáo dục vừa đáp
ứng yêu cầu xã hội, vừa thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi cá nhân, mang đến
niềm vui học tập cho mỗi người và tiến tới một xã hội học tập;
4.
Đẩy mạnh hội nhập
quốc tế về giáo dục phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, góp phần xây dựng nền giáo dục giàu tính nhân văn, tiên tiến, hiện đại;
5.
Phát triển dịch
vụ giáo dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống giáo dục là một
trong những động lực phát triển giáo dục;
6.
Giáo dục phải đảm
bảo chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí còn hạn hẹp" 3
Điều này càng rõ
hơn nếu chúng ta đọc nội dung của từng điểm. Chẳng hạn, đây là những gì ta đọc
được ở điểm "2. Phát triển nền giáo dục
của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng đầu":
"Giáo dục phải chăm lo nhiều hơn đến việc học của các
tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho mọi người, đặc biệt là con em các đồng bào
dân tộc thiểu số, học sinh ở các vùng kinh tế chậm phát triển, học sinh khuyết
tật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với giáo dục có chất lượng.
Về phần mình, người dân cần có ý thức và cần được tạo điều kiện tham gia vào
quá trình giáo dục, từ việc chia sẻ đóng góp cho giáo dục phù hợp với hoàn cảnh
và điều kiện của mình đến việc trực tiếp tham gia vào các quá trình giám sát,
đánh giá, góp ý và hiến kế cho các hoạt động giáo dục. Các thành phần xã hội
đều có trách nhiệm tham gia tích cực vào công tác giáo dục để quá trình giáo
dục trở thành một quá trình xã hội hóa sâu sắc. Với quan điểm coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước tiếp tục dành sự ưu tiên cho giáo dục,
không chỉ thể hiện ở những chính sách đầu tư mà còn ở sự lãnh đạo trực tiếp và
triệt để hơn nữa đối với sự phát triển giáo dục của nước nhà. Trong bối cảnh
của nền kinh tế thị trường, những giải pháp chỉ đạo giáo dục của Đảng và Nhà
nước cũng cần có những đổi mới, sáng tạo và linh hoạt hơn để thích ứng với thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa" 4
Giáo sư Nguyễn
Ngọc Lanh, trong "Triết lý giáo dục nào cho Việt Nam?",
một trong rất ít những bài đề cập cụ thể đến nội dung một triết lý giáo
dục cho Việt Nam, đã nhận xét rất đúng rằng: "Triết lý do dự
thảo Chiến lược phát triển giáo dục đưa ra, rõ ràng không phải dành
cho thầy hoặc cho trò. Nếu viết lại cho phù hợp với "chuẩn", có thể
trở thành triết lý của người quản lý. Hơn ai hết, đội ngũ cán bộ quản lý nước
ta phải quán triệt các quan điểm của đảng cầm quyền. Nhưng biến được quan điểm
thành triết lý để ngày đêm tâm niệm thực hiện quả là không dễ, vì không chỉ là
chuyện thay đổi câu chữ mà xong. 5
Vậy triết lý giáo
dục là gì? Triết lý giáo dục có phải là triết học về giáo dục hay không? Theo
tôi, triết lý giáo dục là những nguyên tắc nền tảng cho hoạt động giáo dục, còn
triết học về giáo dục là một nhánh của triết học, nghiên cứu bản chất của quá
trình giáo dục.
Triết lý giáo dục
Việt Nam
phải như thế nào? Phần lớn các bài viết trên báo chí và tham luận tại các hội
thảo được tổ chức gần đây chỉ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của triết lý giáo
dục hoặc tập trung phê phán những khía cạnh khác nhau của nền giáo dục Việt nam
mà không đưa ra một khái niệm cụ thể. Điều này cũng dễ hiểu. Xác định triết lý
giáo dục của dân tộc cho cả một giai đoạn đòi hỏi nỗ lực của rất nhiều người.
Trong bài viết này tôi cũng chỉ dám đặt một mục tiêu khiêm tốn, đó là trình bày
những suy nghĩ cá nhân và đưa ra một số đề xuất bước đầu.
Theo tôi, mọi
triết lý giáo dục phải trả lời một câu hỏi quan trọng, đó là: Chúng ta muốn
(hay phải) đào tạo những con người như thế nào? Lời đáp cho câu hỏi này là
tiền đề để trả lời câu hỏi thứ hai, "Làm thế nào để đào tạo được những
con người chúng ta mong muốn?" Nhưng để trả lời hai câu hỏi này,
người ta cần phải xuất phát từ một nền tảng triết học về con người, cũng tức là
phải trả lời một câu hỏi khác: "Bản chất con người là gì và mối quan hệ
của nó với tự nhiên và xã hội ra sao". Có thể nói cách trả lời câu hỏi này
quyết định sự khác biệt của các nền triết lý giáo dục.
Các nền triết lý
giáo dục có thể được phân loại theo nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, theo
tôi, hai quan điểm thường gặp nhất là quan điểm nhân tính và quan điểm
tri thức luận.
Quan điểm nhân
tính xuất phát từ câu hỏi: bản chất
con người là tốt hay xấu. Nếu quan niệm như Tuân Tử rằng "nhân chi sơ tính
bản ác", hoặc như Thánh Paul rằng "Cả loài người đều phạm tội và bị
án phạt 6 thì giáo dục là quá trình xóa bỏ những
cái xấu có sẵn trong bản chất con người. Đó là nền giáo dục rửa tội và thanh
lọc tâm hồn. Ngược lại, nếu quan niệm như Plato hay Mạnh Tử, rằng "nhân
chi sơ tính bản thiện" và chỉ trở nên xấu xa do ảnh hưởng của xã hội, thì
giáo dục chính là quá trình chống lại ảnh hưởng tiêu cực của xã hội. Cũng có
trường phái khác, quan niệm như Aristote và John Lock, rằng con người sinh ra
bản chất không tốt mà cũng không xấu, có thể ví như một tấm bảng trắng
("tabula rasa"). Khi đó, giáo dục là quá trình viết nên, hay tạo ra,
nhận thức và tính cách.
Quan điểm nhận
thức luận xuất phát từ câu hỏi: con
người có khả năng hiểu được thế giới hay không? Những người theo thuyết khả tri
trả lời khẳng định. Thuyết khả tri có thể chia ra làm hai nhánh: Thuyết khả
tri nhân văn và Thuyết khả tri tôn giáo. Đại diện điển hình cho
Thuyết khả tri nhân văn là Immanuel Kant. Ông cho rằng con người sinh ra ai
cũng có một khả năng siêu việt gọi là "lý trí" để phân biệt
chân-thiện-mỹ, nhưng phần lớn hèn nhát không dám sử dụng và vì thế vẫn là những
kẻ "vị thành niên về mặt tinh thần". Kant chủ trương rằng giáo dục
phải là quá trình giúp con người dũng cảm sử dụng lý trí một cách tự do. Nền
giáo dục ấy được gọi là nền giáo dục "Khai sáng". Những người theo
thuyết khả tri tôn giáo (đúng hơn là của một số tôn giáo) đồng nhất chân lý với
Chúa Trời. Với họ, giáo dục là cách quá tiếp cận đến chân lý thông qua việc học
kinh sách, vốn là ý Trời được truyền tải qua các nhà tiên tri, những bậc Thánh
nhân. Nền giáo dục tôn giáo có đặc điểm là không cho phép người học nghi ngờ
kinh sách. Với nghĩa này, bất kỳ nền giáo dục nào tuyệt đối hóa và độc tôn một
tư tưởng nhất định sẽ trở thành một nền giáo dục tôn giáo.
Ngược lại, những
người theo thuyết bất khả tri lại có câu trả lời phủ định. Theo họ, con người
quá nhỏ bé và chỉ là một phần của thế giới, vì thế không thể hiểu được thế
giới. Nói cách khác, chân lý không phải là sự tương ứng tuyệt đối giữa sự biểu
đạt của con người với thực tại, mà chỉ là những giả định tương đối mang tính
tình huống mà thôi. Giáo dục, do đó, là quá trình tiếp nhận các hiểu biết mang
tính công cụ và hình thành các kỹ năng thích ứng chứ không phải là đi tìm chân
lý. Quan điểm này có thể thấy, trong chừng mực nhất định, ở triết lý giáo dục
thực dụng luận.
Dĩ nhiên nói về
các nền triết lý giáo dục bằng mấy lời sơ lược như vậy là không đủ. Nhưng chúng
tôi xin được bàn sâu và hệ thống hơn trong một dịp khác. Ở đây, chúng tôi muốn
đề cập thẳng đến vấn đề cốt lõi của triết lý giáo dục Việt Nam: Chúng ta
muốn, hay cần phải, đào tạo những con người như thế nào? Theo tôi, nhiệm vụ của
nền giáo dục là đào tạo ra những con người với ba chiều kích, đó là:
1.
Con người lao
động;
2.
Con người yêu
nước; và
3.
Con người tự do.
Điều này cũng có
nghĩa là giáo dục phải có Tính hướng nghiệp, Tính dân tộc và Tính nhân loại. Ba
mục đích này được xác định trên cơ sở nhận thức rằng con người là một động
vật xã hội và sáng tạo, rằng sự phát triển của con người nằm trong mối
quan hệ biện chứng với thế giới xung quanh và với bản thân mình với tư cách là
một phần của thế giới.
Con người lao
động là chiều kích căn bản nhất
nhưng cũng ở cấp độ thấp nhất của con người. Con người được tạo ra, nói như
Engel, nhờ lao động. Là động vật, nhưng con người khác con vật thông thường nhờ
các quan hệ xã hội và những đối tượng chưa từng tồn tại trước đó do chính nó
tạo ra. Hơn thế nữa, tính sáng tạo và trình độ tổ chức xã hội trong lao động
quyết định sự phát triển của con người. Vì thế, dạy nghề - tức là rèn luyện
những kỹ năng lao động hiệu quả nhất trong một bối cảnh lịch sử nhất định - là
mục đích đầu tiên của giáo dục.
Con người dân
tộc, chiều kích thứ hai, xuất phát
từ thực tế là con người không tồn tại chung chung mà luôn gắn liền với một cộng
đồng cụ thể, từ quy mô gia đình đến quy mô một dân tộc - một cộng đồng bền vững
với những ký ức, kinh nghiệm và cơ sở vật chất chung mà chúng ta thường gọi là
một nền văn hóa. Sự phát triển của cá nhân dựa trên vào và được quy định bởi
các quan hệ trong cộng đồng, và người lại, mỗi cá nhân đều là một thể hiện cụ
thể của cộng đồng ấy. Vì thế, mục đích thứ hai của giáo dục là bồi đắp nhân
cách văn hóa dân tộc.
Mục đích cao nhất của giáo dục là đào tạo những thành viên tự do và bình đẳng của
nhân loại. Hai phạm trù tự do và bình đẳng liên quan chặt chẽ với nhau: chỉ
những người tự do mới bình đẳng, và chỉ bình đẳng mới có thể có tự do. Nhưng
thế nào là tự do? Tự do, theo tôi, là ý chí và năng lực của một cá nhân để đạt
đến giới hạn phát triển tối đa về tinh thần và vật chất trong mối tương quan
với tự nhiên, xã hội và bản thân. Tự do bao gồm tự do vật chất và tự do tinh
thần. Tự do vật chất là sự thoát khỏi những ràng buộc vật chất, như đói khát,
bệnh tật, rào cản không gian, thời gian...Tự do tinh thần là sự thoát khỏi các
ràng buộc tinh thần để vươn tới chân lý, sự thật, cái mới, cái đẹp và sự khác
biệt. Tự do không phải là vô bờ bến và không phải vô điều kiện. Xin nhắc lại,
là tự do luôn luôn dựa trên sự hiểu biết và tôn trọng các giới hạn trong mối
tương quan giữa bản thân mình với xã hội và tự nhiên. Vì thế, mục đích thứ
ba, cũng là mục đích cao nhất của giáo dục, mang tính nhân đạo và giải phóng.
Dù có thể được diễn đạt bằng những ngôn từ khác nhau,
theo tôi, ba mục đích nói trên là cốt lõi của một nền giáo dục đích thực, và sẽ
còn mãi như thế chừng nào con người và dân tộc còn tồn tại.
Việc xác định rõ ràng các mục đích là bước đầu tiên để
chúng ta hình thành và triển khai các hoạt động giáo dục. Làm sao để đào tạo
được con người tự do, có kỹ năng lao động và mang bản sắc dân tộc? Câu hỏi này
cần nhiều trang sách để bàn. Ở đây, tôi muốn đề cập đến một số điểm của chương
trình giáo dục phổ thông. Căn cứ vào ba mục đích giáo dục nói trên, chúng ta
nên phân các môn học thành ba nhóm lớn, nhóm thứ nhất mang tính chuyên ngành
(hay dạy nghề), nhóm thứ hai dạy về đất nước, và nhóm thứ ba dạy về thế giới
quan. Liên quan đến việc phân loại này là tương quan giữa các môn học, thời
lượng cho từng môn học ở các nhóm học sinh và các cấp độ (lớp học) từ thấp đến
cao, và dĩ nhiên là phương pháp giảng dạy các nội dung đó.
Trước hết là đào tạo con người tự do. Tự do cá nhân,
như tôi đã viết ở trên, phải dựa trên nhận thức về khả năng và giới hạn của
mình trong mối quan hệ với bản thân, xã hội và thế giới xung quanh. Nói cách
khác, muốn tự do thì phải hiểu mình, hiểu người và hiểu
vật. Để giúp học trò hiểu mình, chúng ta phải đánh giá đúng mức
một số môn học hiện nay đang bị coi là "môn phụ", như thể dục hay các
môn học về sinh lý người (vệ sinh thân thể, tình dục, v.v...). Sự thiếu hiểu
biết về chính cơ thể mình dẫn đến nhiều vấn đề nhức nhối của thanh thiếu niên
hiện nay. Với môn thể dục, tối đã có lần đề cập. Đến các quốc gia phát triển,
chỗ nào chúng ta cũng thấy sân vận động, trường đua, nhà thể thao, bể bơi. Thay
vì chúi mũi suốt ngày vào những bài toán hay văn mẫu, trẻ em ở các nước đó chơi
thể thao rất nhiều. Đó là cách nhìn rất đúng: không thể có được tự do ở một
người ốm yếu!
Để học trò hiểu người và hiểu vật,
chúng ta quả đề cao các môn học về thế giới quan và nhân sinh quan, đặc biệt là
triết học. Môn triết học có nhiệm vụ trang bị cho học sinh hiểu biết về xã hội
và thế giới cũng như về vị trí của con người trong xã hội và thế giới. Nó làm
điều đó thông qua việc tiếp cận các hệ thống triết học một cách phê phán
và đa chiều. Điều này có lý do sâu xa là mọi hệ thống triết học đều là
sản phẩm của con người, với tư cách là một phần của thế giới, vì thế không hệ
thống triết học nào có thể giải quyết triệt để mọi vấn đề của thế giới. Cách
giảng dạy triết học của chúng ta hiện nay không chỉ mang nặng tính tuyên
truyền, áp đặt và độc đoán mà thật còn phi triết học. Về bản chất, nó chính là
phương pháp giáo dục tôn giáo, hoàn toàn đi ngược lại mục đích giải phóng con
người.
Để đào tạo con người dân tộc, ở đây là con người mang
bản sắc Việt Nam, chúng ta cần phải đặt lên hàng đầu các môn học có tác dụng
cung cấp kiến thức và bối đắp tâm hồn dân tộc. Các môn học đó là Văn chương
Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, và Địa lý Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân, trong đó
có tác động dẫn hướng của kỳ thi tốt nghiệp, các môn Toán, Vật lý, Hóa học,
Sinh vật hiện nay được coi là những môn chính, rất được đề cao. Với các môn
này, các em không chỉ học ở lớp, mà còn học thêm. Nhưng đó chính là một sự nhầm
lẫn, dẫn đến lãng phí thời gian và tiền bạc của học sinh, đồng thời là trình
trạng quá tải của chương trình. Theo tôi, trừ những em học chuyên sâu để sau
này được đào tạo thành chuyên gia, các học sinh còn lại chỉ cần có kiến thức
tối thiểu về các lĩnh vực này. Thử hỏi, trong chúng ta, kể cả những học sinh
xuất sắc xưa kia, mấy ai còn nhớ và cần nhớ cách tính "sin",
"cos", đạo hàm, hay những công thức hóa học hữu cơ? Trong khi đó, với
tư cách là người Việt, chúng ta phải làm chủ tiếng Việt để tư duy, viết và nói
thành thạo bằng tiếng Việt, phải tuân thủ phong tục, tập quán và pháp luật Việt
Nam, và trên hết là phải sống và ưu tư cùng với lịch sử và những vấn đề tồn
vong của đất nước. Riêng với môn Địa lý Việt Nam, ngoài những phần về địa hình,
hành chính và kinh tế, theo tôi, chúng ta nên có thêm phần địa lý văn hóa
các dân tộc thiểu số anh em trên đất nước ta.
Việc xem xét lại chương trình và thời lượng của các
môn học cũng liên quan đến vấn đề dạy nghề, bao gồm dạy kiến thức và kỹ
năng làm việc (các môn chuyên ngành và ngoại ngữ) và dạy qui tắc
làm việc (Luật, Đạo đức). Có một thực tế mà rất nhiều tác giả đã nói: học
sinh của chúng ta học quá nhiều mà lại biết rất ít, khả năng làm việc là càng
ít hơn hơn nữa. Ngoài ra, các em rất ít được học về pháp luật. Trên thực tế,
các em rất kém về kiến thức pháp luật, thậm chí ngay cả luật giao thông. Lý do
chính là điều tôi đã nói ở trên: các em phải học quá nhiều kiến thức thật ra
không cần thiết, trong khi lại không có đủ thời gian để tập trung vào lĩnh vực
chuyên sâu hặc kiến thức cần thiết cho cuộc sống hàng ngày.
Vì thế, theo tôi, chúng ta chỉ nên áp dụng một chương
trình thống nhất và bắt buộc cho đến hết Phổ thông cơ sở (lớp 9). Ở bậc Phổ
thông trung học (lớp 10-12), chúng ta nên phân loại học sinh theo các ban
chuyên ngành, chẳng hạn (1) Ban khoa học tự nhiên, (2) Ban khoa học xã hội, (3)
Ban nghệ thuật, và (4) Ban phổ thông. Các ban 1, 2 và 3, với số lượng học sinh
hạn chế, có nhiệm vụ chuẩn bị để đào tạo các chuyên gia hoặc nghệ sĩ sau này,
còn Ban phổ thông chiếm đa số, có mục đích đào tạo những công dân phát triển
toàn diện cho các hoạt động kinh tế, xã hội nói chung.
Với cách phân chia như trên, ở bậc Phổ thông trung học
(các lớp 10, 11, 12) chúng ta phải có sách giáo khoa riêng cho mỗi Ban, trừ các
môn chung là Văn chương, Lịch sử, Địa lý (và có thể là môn Pháp luật Việt Nam).
Mỗi Ban có một số môn chuyên ngành cốt lõi, với nội dung và thời lượng tăng
cường. Các môn còn lại chủ yếu có ý nghĩa giới thiệu đại cương, với nội dung và
thời lượng tối thiểu. Riêng với môn Triết học (có thể chỉ học ở lớp 12) có thời
lượng như nhau cho tất cả các Ban, nhưng với nội dung khác nhau để phù hợp với
định hướng nghề nghiệp của các em. Việc phân ban sẽ giúp giảm tải đáng kể cho
chương trình, đồng thời tăng cường tính hữu dụng của kiến thức trong nhà
trường.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét